Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần X

Xạ Can

14:05 18/05/2017

Belamcanda chinensis (L.) DC.

Tên đồng nghĩa: Belamcanda punctata Moench.

Tên khác: Rẻ quạt, lưỡi đòng.

Tên nước ngoài: Leopard lily, dwarf tiger - lily, leopard flower, blackberry lily (Anh).

Họ: La dơn (Iridaceae).

Mô tả

Cây thảo, sống nhiều năm, cao 0,50 - lm. Thân rễ mọc bò, phân nhánh nhiều. Thân ngắn bao bọc bởi những bẹ lá. Lá hình dải, dài 30 cm, rộng 2cm, gốc ốp lên nhau, đầu nhọn, gân song song, hai mặt nhẵn, gần như cùng màu; toàn bộ các lá xếp thành một mặt phẳng và xòe ra như cái quạt.

Cụm hoa phân nhánh, dài 30 - 40 cm; lá bắc dạng vảy; hoa có cuống dài, xếp trên nhánh như những tán đơn, màu vàng cam điểm những đốm tía; đài có răng nhỏ hình mũi mác; tràng có cánh rộng và dài hơn lá đài; nhị 3, đính ở gốc cánh hoa; bầu 3 ô.

Quả nang, hình trứng; hạt nhiều, màu đen bóng.

Mùa hoa quả: tháng 7 -10.

Belamcanda Adans là chi đơn loài với 1 loài duy nhất là xạ can. Hiện chưa rõ về nguồn gốc phát sinh; song có thể thấy cây sống trong trạng thái hoang dại và được trồng ở Ân Độ, Triều Tiên, phía nam của Nhật Bản, Đông Nam Trung Quốc, Indonesia, Philippin, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam. Cây đã được trồng lâu đời ở Ân Độ và Trung Quốc.

Đến thế kỷ 17 du nhập sang Anh, châu Âu và đến thế kỷ 18 tiếp tục được nhập vào Bắc Mỹ để trồng làm cảnh.

Ở Việt Nam, xạ can cũng gặp ở trạng thái hoang dại và trồng. Cây mọc hoang rải rác ở các bãi hoang quanh làng, hoặc dưới chân núi đá vôi ở Ninh Bình, Thanh Hóa, Lạng Sơn, Quảng Ninh... Còn xạ can trồng chủ yếu ở vườn các gia đình, vườn cây thuốc của các cơ sở y tế, hoặc trong các nghĩa trang (trang trí cho các mồ mả). Từ năm 1981 - 1986, xạ can được trồng nhiều ở Nông trường Dược liệu Đắc Trung (Đắc Lắc), Đồng Nai, Bình Dương... để lấy dược liệu xuất khẩu. Tuy nhiên, Ân Độ và Trung Quốc là những nước trồng nhiều xạ can nhất thế giới.

Xạ can là cây ưa sáng và có khả năng chịu hạn tốt, sinh trưởng và phát triển mạnh trong mùa mưa ẩm (ở miền Nam) và mùa xuân - hè (ở các tỉnh phía bắc). Xạ can trồng được trên 1 năm tuổi mới có khả năng ra hoa quả. Cây trồng ở chỗ dãi nắng và nhất là ở các tỉnh phía nam có tỷ lệ hoa quả cao hơn ở các tỉnh phía bắc. Xạ can có sức sống dai, tái sinh dinh dưỡng khỏe từ các phần của thân rễ và từ hạt.

Cách trồng

Xạ cạn được trồng ở nhiều nơi để làm cảnh và lấy củ làm thuốc.

Cây có thể nhân giống bằng hạt hoặc tách mầm. Hạt xạ can nảy mầm tốt nhất ở 24°c, vì vậy gieo vào tháng 3 hoặc tháng 9 là thích hợp. Gieo thẳng theo hàng hoặc gieo trong vườn uơm, sau đánh cây con đi trồng. Hiện nay, phổ biến nhất là tách mầm, mỗi hốc trồng 2-3 mầm. Thời vụ trồng bằng mầm cũng tương tự như thời vụ gieo hạt.

Đất nào cũng trồng được xạ can, trừ nơi úng ngập, đất kém thoát nước. Nếu trồng ít, có thể trồng trong chậu, bồn, dọc lối đi, viền luống. Nếu trồng nhiều, cần làm đất kỹ, lên luống để dễ thoát nước rồi đánh rạch hoặc bổ hốc với khoảng cách 20 X 30 cm hoặc 30 X 30cm. Nên bón lót cho mỗi hecta 15 tấn phân chuồng. Trồng xong, tưới nước cho đến khi cây bén rễ. Hàng tháng, dùng nước phân chuồng hoặc đạm 2% tưới thúc một lần. Cây xạ can mọc bò lan bằng thân ngầm, có thể phủ kín toàn bộ mặt luống. Vì vậy, chỉ cần làm cỏ thời gian đầu.

Cây ít bị sâu bệnh.

Bộ phận dùng

Thân rễ thu hái vào mùa xuân khi cây ra nụ hoặc mùa thu khi bộ phận trên mặt đất tàn héo, loại bỏ đất cát, rễ con, rồi đem phơi hoặc sấy khô. Khi dùng thái phiên.

Theo quy định của Dược điển Trung Quốc 1997 (bản in tiếng Anh), hàm lượng chất chiết nóng bằng cồn không được dưới 18%.

Thành phần hóa học

Thân rễ xạ can chứa tectọrigenin, irigenin tectoridin, iridin, 5, 3 - dihydroxy - 4', 5' - dimethoxy - 6, 7 - methylendioxyisoflavon, dimethyltectorigẹnin, irisflorentin, muningin, các iristectorigenin A và B (CA 115: 203332 a), các chất (6R, 10S, lis, 14S, 26 (R) - 26 - hydroxy - 15 - methylidenespừoirid - 16 - enal, iso - iridogermanal, 28 - acetoxy - 14, 15 - dihydro - 26 - hydroxy -19 - methyldepenespứoirida - 15, 17 - dienal (Abe Fumiko và cs 1991); noririsflorentin (5 - hydroxy; 6, 7 - xnethylendioxy - 3', 4’, 5' - trimethoxyisoflavon (CA 119: 245 560).

Theo Tsuchiya Hiroyoshi và cs, 1986, từ 2, 500 kg rễ xạ can có thể tách chiết dược 2,22g tectorigenin. Chất này có tác dụng ức chế dị ứng (CA 109: 216001t). Theo Qin Minjian và cs, 1996, hàm lượng irigenin trong xạ can là 1,36%. Rễ có các chất shegansu A (= irigenin - 5 - o - (6' - o - vanilin acid) - p - D. glucosid), isorhopontigenin, resveratrol, acid p.hydroxybenzoic, iridin, tectoridin, tectorigenin, daucosterol, irigenin, irisflorentin, 3 - stigmastenol, apocynin, p - sitosterol.

Hạt có 4 enedion là belamcandon A - D (Seki Katsura và cs 1995) (CA 122: 261087 x); belamcandaquinon A (Fukuyama Yoshasu và cs, 1992; CA 120: 101972 v), các chất I và II (Fukuyama Yoshiyasu và cs, 1990; CA 118: 11723 u), các belamcandol A và B (Fukuyama Yoshiyasu và cs, 1991; CA 116: 3555 j).

Xạ can còn có chất 1,4 - benzopunon I (Fukuyama Yoshiyasu và cs 1992) (CA 120: 134 035 v), Me irisolidon, irisílorentin, iristectorigenin A (Yamaki Masae và cs, 1990; CA 113: 208350 y).

Tác dụng dược lý

Trong thí nghiệm in vitro cao cồn thân rễ xạ can có tác dụng ức chế các chủng vi khuẩn: phế cầu, liên cầu tan máu, trực khuẩn ho gà, Bacillus subtilis, và có tác dụng yếu đối với các chủng vi khuẩn: tụ cầu vàng, Shigella dysenteriae, Sh. shigae, Enterococcus. Lá xạ can không thể hiện tác dụng ức chế các chủng vi khuẩn trên với liều tương đương với thân rễ. Thân rễ xạ can có tác dụng chống viêm trong mô hình gây phù bàn chân với kaolin, và gây u hạt thực nghiệm với amian ở chuột cống trắng, và có độc tính thấp. Có tác dụng chống co thắt gây bởi histamin trên cơ trơn ruột chuột lang cô lập, và có tác dụng lợi tiểu nhẹ.

Flavonoid toàn phần của xạ can có tác dụng ức chế yếu hoạt tính của men polyphenoloxydase huyết thanh người in vitro. Hoạt tính của men này trong huyết thanh người tăng rõ rệt trong các bệnh nhiễm khuẩn, trong các trạng thái viêm cấp tính hoặc mạn tính, trong các bệnh bạch cầu, xơ gan, tăng năng tuyến giáp. Cao chiết với nước nóng từ thân rễ xạ can với nồng độ 0,5 X 101 mg/ml có hoạt tính ức chế aldose reductase là enzym gây tích luỹ sorbitol trong tế bào. Aldose reductase có vai trò quan trọng trong bệnh sinh những biến chứng của đái tháo đường mạn tính như bệnh võng mạc, bệnh thần kinh và bệnh thận. Nước sắc thân rễ xạ can được tiêm phúc mạc cho chuột, và theo dõi sự thay đổi nhiễm sắc thể tế bào tủy xương sau 24 và 48 giờ, thấy xạ can với liều lượng tương đương với liều dùng cho người, tính theo kg thể trọng, không gây tổn thương nhiễm sắc thể; với liều gấp 4 lần bắt đẩu có tổn thương nhẹ và với liều gấp 15 lần làm tăng chỉ số phân bào và lệch bội.

Đã nghiên cứu sàng lọc trên cao nước thân rễ xạ can về hoạt tính ức chế HIV - 1 protease trong thử nghiệm sinh fluor và thấy nồng độ có tác dụng là 25 microgam/ml. Chất belamcandaquinon A phân lập từ hạt xạ can có hoạt tính ức chế đặc hiệu cyclooxygenase. Trong thử nghiệm trên đung dịch bào tương của bạch cầu đa hình, belamcandol A và ardisianon A được chứng minh là có tác dụng ức chế đặc hiệu 5 - lipoxygenase.

Chế phẩm từ thân rễ xạ can và củ sâm đại hành được thử nghiệm lâm sàng trên nhiễm khuẩn đường hô hấp trên cho trẻ em và viêm họng cho người lớn, đã có kết quả điều trị tốt ở 76,4% bệnh nhi, ở 85% bệnh nhân viêm họng cấp tính và 63,8% bệnh nhân viêm họng mạn tính. Thuốc được dung nạp tốt, không gây tác dụng không mong muốn. Chế phẩm viên ngậm từ xạ can, cát cánh, trần bì được ứng dụng lâm sàng cũng có tác dụng tốt điều trị viêm họng, làm giảm đau, chống viêm tấy, làm mềm và ẩm niêm mạc họng, kích thích xuất tiết, giảm phản xạ. Xạ can có trong thành phẩn một thuốc cầm máu, cùng với lá phèn đen, sim rừng và ngũ bội tử; áp dụng trên lâm sàng qua 100 ca cắt amiđan, thuốc có tác dụng cầm máu nhanh khi chấm quả bông cầu vào hốc amidan mới bóc tách. Đã áp dụng bài thuốc gồm xạ can và cải trời điều trị cho 55 trường hợp lao hạch, kết quả khỏi 54,5%. Riêng đối vói lao hạch thể rò mủ và nhũn bã đậu, khỏi 100%. Thời gian điều trị từ 2 tháng đến 17 tháng.

Tính vị, công năng

Xạ can có vị đắng, tính mát, hơi có độc, vào hai kinh: phế và can, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tán huyết, tiêu đờm.

Công dụng

Xa can được coi là một vị thuốc quý chữa các bệnh về họng, viêm amiđan có mủ, ho nhiều đờm, khản tiếng; còn được dùng chữa sốt, đại tiểu tiện không thông, sưng vú tắc tia sữa, đau kinh, và làm thuốc lọc máu. Ngày dùng 3 - 6 g dưới dạng thuốc sắc hoặc bột làm viên ngậm, uống, hoặc dùng 10 - 20g thân rễ tươi rửa sạch, nhúng qua nước sôi, giã nát với vài hạt muối, vắt nước ngậm và nuốt dần, bã hơ nóng, đắp vào cổ. Để chữa rắn cắn, dùng cả cây, giã nát, thêm nước gạn uống, bã đắp.

Kiêng kỵ: Phụ nữ có thai không nên dùng.

Trong y học cổ truyền Trung Quốc, xạ can được coi là có tác dụng trừ nhiệt độc, trừ đờm, làm đỡ đau họng, thuốc long đờm, điều tri viêm họng, viêm aniđan, ho và khó thở, khạc ra nhiều đờm. Ngày dùng 3 - 9g. Ở Ân Độ xạ can điều trị bong gân bằng cách giã nát thân rễ, bọc trong một lá trầu không, đắp và băng vào cơ của chi bị bong gân. Ở các nước Đông Nam Á, thân rễ xạ can dược dùng phổ biến để điều trị viêm họng và bệnh đường hô hấp trên khác như viêm thanh quản, viêm amiđan, ho đờm và hen. Còn dùng làm thuốc lọc máu, thuốc khai thông và gây trung tiện, thuốc tẩy, lợi tiểu và thuốc bổ. Ở Malaysia, xạ can được dùng trị bệnh lậu và nấu nước tắm cho phụ nữ sau khi đẻ. Ở Indonesia, xạ can giã đắp trị đau lưng.

Bài thuốc có xạ can

1. Chữa viêm họng:

a) Xạ can 4g, kinh giới 16g; kim ngân, huyền sâm, sinh địa, mỗi vị 12g; bạc hà, cỏ nhọ nồi, tang bạch bì, mỗi vị 8g. Sắc uống ngày một thang.

b) Xạ can 6g; sinh địa, huyần sâm, mỗi vị 16g; mạch môn, tang bạch bì, cam thảo nam, kê huyết đằng, thạch hộc, mỗi vị 12g; tằm vôi 8g. sắc uống ngày một thang.

2. Chữa viêm họng, ho đờm:

a) Xạ can, cam thảo dây hoặc mạch môn, mỗi vị 10g, Sắc uống ngày một thang.

b) Xạ can 8g, sài đất 10g, đậu chiều (sao vàng) 8g, cam thảo dây (tươi) 6g. sắc uống ngày một tharig.

3. Viên nén chữa viêm họng:

Mỗi viên có bột rễ và lá xạ can 0,08g, bột cát cánh 0,01g, bột trần bì 0,01g, tá dược vừa đủ cho một viên. Mỗi ngày 10 viên, chia làm 3 lần ngậm.

4. Sirô chữa ho:

Cao xạ can 2/1 15ml, cao hương nhu 2/1 20ml, cao cam thảo 2/1 10 ml, sirô đơn vừa đủ cho 100ml. Người lớn: mỗi lần 2 thìa canh, ngày 2 lần. Trẻ em: mỗi lần 2 thìa cà phê, ngày 2 lần.

5. Viên nén và sirô Sâm can để điêu trị viêm họng cấp và mạn tính:

Mỗi viên nén chứa lượng cao tương đương 0,2g xạ can và 0,5g huyền sâm. Sirô chứa 8g xạ can và 20g huyền sâm trong 100 ml. Người lớn, mỗi ngày uống hay ngậm 8-15 viên, chia 3 lần. Trẻ em uống sirô mỗi ngày 2-3 thìa cà phê, chia 3 lần. 6. Chữa viêm amiđan cấp tính:

a) Xạ can 6g; kim ngân hoa, cỏ nhọ nồi, bồ công anh, mỗi vị 16g; huyền sâm, sinh địa, sơn đậu căn, mỗi vị 12g; bạc hà, ngưu bàng tử, mỗi vị 8g; cát cánh 6g. Sắc uống ngày một thang.

b) Xạ can 8g; kim ngân hoa, thạch cao, mỗi vị 20g; huyền sâm, sinh địa, cam thảo nam, mỗi vị 16g; hoàng liên, hoàng bá, tang bạch bì, mỗi vị 12g. sắc uống ngày một thang.

7. Chữa viêm amiđan mạn tính:

a) Xạ can 8g, huyền sâm 16g; sa sâm, mạch môn, tang bạch bì, ngưu tất, mỗi vị 12g; thăng ma 6g, cát cánh 4g. Sắc uống ngày một thang.

b) Xạ can 8g; sa sâm, mạch môn, huyền sâm,tang bạch bì, mỗi vị 12g. sắc uống ngày một thang.

8. Chữa hen phế quản thể hàn:

a) Xạ can, tô tử, ma hoàng, bán hạ chế, hạnh nhân, bách bộ, thảo quả, mỗi vị lOg; cam thảo, quế chi, bồ kết, mỗi vị 6g. Sắc uống ngày một thang.

b) Xạ can 6g; tế tân, tử uyển, khoản đông hoa, đại táo, mỗi vị 12g; ma hoàng lOg; bán hạ chế, ngũ vị tử, mỗi vị 8g; gừng sống 4g. sắc uống ngày một thang.

9. Chữa hen phế quản thể nhiệt:

Xạ can lOg, thạch cao 20g, đại táo 12g, hạnh nhân lOg; ma hoàng, tô tử,đình lịch tử, mỗi vị 8g; bán hạ chế 6g, gừng tươi 4g. sắc uống ngày một thang.

10. Chữa lao phổi:

Xạ can 6g, hạ khô thảo 16g; sinh địa, mạch môn, sa sâm, mỗi vị 12g; huyền sâm, địa cốt bì, bách bộ chế, mỗi vị 8g. sắc uống ngày một thang.

11. Chữa lao hạch:

a) Xạ can 8g, cải trời (hạ khô thảo nam) 40g. sắc đặc ngày uống một lần, hoặc nấu thành cao uống trong một ngày như trên.

b) Xạ can 8g; huyền sâm, hạ khô thảo, mẫu lệ, mỗi vị 16g; địa cốt bì, mai ba ba, mỗi vị 12g. sắc uống ngày một thang.

12. Chữa tắc cổ họng:

Xạ can 4g; hoàng cầm, sinh cam thảo, cát cánh, mỗi vị 2g. Các vị tán nhỏ uống với nước đun sôi để nguội.

13. Chữa bệnh bạch hầu:

Xạ can 2g; sinh địa, huyền sâm, cỏ nhọ nồi, kim ngân, mỗi vị 16g; mạch môn, ngưu tất, mỗi vị 12g: Sắc uống ngày một thang.

14. Chữa sưng đau:

Xạ can, lá cúc tần, mỗi vị 20g; lá thầu dầu tía lOg. Giã nhỏ với cơm nóng, nặn thành bánh đắp vào chỗ sưng đau, băng lại. Ngày làm hai lần.

15. Chữa đại, tiểu tiện không thông, bụng báng:

Xạ can (để sống) 12g, giã nát, hòa vào một chén nước, lọc bỏ bã uống mỗi ngày đến khi thấy lợi đại, tiểu tiện thì thôi.

16. Chữa kết hạch và u báng:

Xạ can lOg, nghệ đen 8g, xuyên khung 6g. sắc uống ngày một thang.

17. Chữa sốt rét:

Xạ can 6g, tri mẫu 20g; sài hồ, ý dĩ sao, mạch môn, thanh hao, hoàng đẳng, trần bì, bán hạ chế, chỉ xác, cam thảo nam, hoàng cầm, tô tử, mỗi vị lOg. sắc uống ngày một thang.

 

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC