Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần N

Ngải Cứu

10:08 03/08/2017

Ngải Cứu có tên khác: Thuốc cứu, ngải diệp, nhả ngải (Tày), co linh ly (Thái), quá sú (H' Mông), ngỏi (Dao).

Tên nước ngoài: Wormwood, mugwort, fleabane, felon herb, motherwort, sailor’s tobacco (Anh); armoise, herbe de feu, artémise, herbe de Saint - Jean, remise (Pháp).

Họ: Cúc (Asteraceae).

Mô tả

Cây thảo, sống lâu năm, cao 0,40 - lra. Thân cành mọc sum suê, có rãnh và lông nhỏ. Lá mọc so le, chẻ lông chim, phiến men theo cuống đến tận gốc, đính vào thân như có bẹ, các thuỳ hình mác hẹp, đầu nhọn, mặt trên màu xanh lục sẫm, nhẩn hoặc có ít lông, mặt dưới phủ đầy lông nhung màu trắng; những lá ở ngọn có hoa không chẻ.

Cụm hoa mọc ở ngọn thân và đầu cành thành chùm kép, mang nhiều đầu nhỏ, màu vàng lục nhạt; tổng bao gồm những lá bắc nguyên giống như những vảy có lông ; đầu mọc chúc xuống cùng phía, hình trứng cụt, mang hoa cái hoặc hoa lưỡng tính trên cùng một cụm hoặc ở những cụm khác nhau; thường hoa cái chiếm nhiều hơn; hoa không có mào lông; tràng hoa cái có ống mảnh, cụt hoặc có hai răng ở dầu, tràng hoa lưỡng tính hình phễu, có 5 thuỳ uốn cong ra phía ngoài; nhị 5.

Quả bế, thuôn nhỏ, không có túm lông. Toàn cây có mùi thơm hắc. Mùa hoa quả: tháng 10-12.

Ngải cứu và tác dụng chữa bệnh của nó

Phân bố, sinh thái

Ngải cứu có nguồn gốc ở vùng ôn đới ấm châu Âu hoặc châu Á, hiện nay cây được trồng và trở nên hoang dại hoá ỏ vùng nhiệt đới Nam Á, Đông - Nam Á và Ấn Độ, Pakistan, Srilanca, Bangladesh, Lào, Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc.... Ở Việt Nam, cây dược trồng từ lâu đời trong nhàn dân từ nam đến bắc. Ở độ cao từ khoảng 800m trở lên, có cây ngải dại mọc tự nhiên rất nhiều ở tỉnh Lào Cai (Sa Pa, Bắc Hà, Bát Xát, Mường Khương, Than Uyên); Lai Châu (Phong Thổ, Sìn Hỗ, Tuần Giáo, Tủa Chùa); Yên Bái (Mù Cang Chải); Cao Bằng (Trùng Khánh, Bảo Lạc); Lạng Sơn (Vùng Mẫu Sơn); Hoà Bình (Mai Châu) và Hà Giang... chính ngải dại là nguồn dược liệu được khai thác thường xuyên, mỗi năm đến 1000 tấn để sản xuất thuốc. Còn ngải cứu trồng chỉ được sử dụng tại chỗ, trong phạm vi nhân dân.

Ngải cứu là cây ưa ẩm, có thể hơi chịu bóng, thường được trổng phân tán trong các vườn gia đình, hay các vườn thuốc của các cơ sở y học dân tộc. Cây mọc thành từng khóm, nếu không bị thu hái, tỉa thưa sẽ nhanh chóng bò lan tạo thành đám lớn khó phân biệt giữa các cá thể. Cây sinh trưởng mạnh trong mùa xuân - hè; về mùa đông, phần thân, cành trên mặt đất có hiện tượng tàn lụi một phần.

Ngải cứu ra hoa quả nhiều hàng năm, song hạt không được sử dụng để gieo trồng. Cách trồng Ngải cứu được trồng phổ biến ở khắp nơi. Cây ưa ẩm, mát, khồng kén đất, rất dễ trồng. Có thể trồng bằng đoạn thân cành mọc sát mặt đất hoặc bằng cây con. Thời vụ trồng tốt nhất là mùa xuân. Chọn đất ẩm, mát, nhiều mùn, không bị úng ngập, cuốc xới cho tơi xốp rồi bổ hốc với khoảng cách 30 X 40cm. Cũng có thể trồng theo rạch hoặc theo luống với khoảng cách trồng như trên. Dùng ít phân chuồng hoai mục trộn đều với đất ở mỗi hốc hoặc rạch rồi đặt đoạn thân cành (mỗi hốc 2 đoạn, mỗi đoạn dài 20 - 25cm). Lấp đất 2/3 rồi tưới nước. Lúc cây còn nhỏ, cần đảm bảo đủ độ ẩm. Khi cây đã lớn, thường kỳ làm cỏ, xới xáo, thoát nước nếu bị úng, bón thóc bằng nước phân chuồng, nước giải hoặc đạm pha loãng và bấm ngọn để kích thích cây đẻ nhiều chồi nhánh.

Ngải cứu sống khoẻ, ít bị sâu bệnh. Trổng một lần, có thể thu hái liên tục trong nhiều năm. Sau mỗi lần thu hái, cần bón thúc thêm phân cho cành non tái sinh và ra nhiều lá. Bộ phận dùng Phẩn trên mặt đất thu hái khi cây có hoa, dùng tươi hay phơi khô trong râm. Nếu tán nhỏ rồi rây lấy phần lông trắng thì được ngải nhung. Dùng sống hoặc chế biến như sau:

1. Ngải diệp sao: Dùng lửa nhỏ, sao lá ngải cho khô, hơi vàng.

2. Ngái diệp sao cháy: Lấy lá ngải cho vào nồi, sao đến khi có màu đen, vẩy ít nước để trừ hoả độc.

3. Ngài diệp chích mật:

Lá ngải: lOkg

Mật ong: 2kg

Đem mật ong pha loãng, đun sôi, cho lá ngải vào đảo đều cho đến khi khô vàng, sờ không dính tay là được.

4. Ngải diệp chích giấm.

Lá ngải: 10kg

Giấm: l,2kg

Trộn đều lá ngải với giấm để 30 phút. Sao đến khô khi dược liệu có màu đen

5. Ngải diệp chích rượu:

Lá ngải: 10kg

Rượu: 1,5-2kg

Trộn đều sao cho đến khô đen hoặc sao lá ngải cho đen rồi phun rượu vào, vẩy ít nước để trừ hoả độc.

6. Ngải diệp chưng với rượu, giấm, gừng, muối.

Lá ngải: 10kg Rượu, giấm: mỗi thứ 1 kg

Gừng tươi: 20kg

Muối ăn: 80 g

Đem gừng rửa sạch thái lát rồi giã, vắt lấy nước cốt, làm vài lần như vậy. Hoà muối vào nước gừng rỗi trộn với rượu và giấm. Đem hỗn dịch này trộn vói lá ngải, ủ 1 giờ cho mềm rồi chưng 1 giờ. Phơi khô.

Tác dụng dược lý

Cao ngải cứu có hoạt tính diệt và đuổi côn trùng, kháng đột biến và trừ giun. Hiệu lực của một thuốc gel chứa cao ngải cứu đã được nghiên cứu ở Nhật Bản trên 56 ngưừi có bệnh ngứa da. Kết quả rất tốt ở 67% bệnh nhân viêm ngứa da, 56% người viêm da dị ứng và 73% trường hợp khô đa ở người già. Kết quả kém hơn ở một số trưòng hợp viêm da do tiếp xúc. Không thấy có tác dụng phụ. Cao nước ngải cứu có tác dụng ức chế rõ rệt sự phát triển của vi khuẩn gram - dương và gram - âm in vitro. Nó ức chế đáng kể sự phát triển của vi khuẩn gây sâu răng Streptococcus mutans. Tinh dầu từ lá ngải cứu tươi thử ở 5000 ppm đối với nấm Aspergillus flavus ức chế phát triển nấm 67%.

Ngải cứu có thể gây viêm da tiếp xúc. Nước sắc ngải cứu có tác dụng lợi tiểu. Tác dụng này một phần do hàm lượng kali khá cao trong cây. Ngải cứu có tác dụng ức chế co thắt cơ trơn ruột chuột lang gây bởi histamin và acetylcholin, và ức chế co thắt phế quản chuột lang đặt trong bình khí dung histamin. Ngải cứu với liều tương ứng liều điều trị trên người không gây tổn thương cho nhiễm sắc thể; liều gấp 50 - 100 lần liều điều trị trên người không gáy tổn thương đáng kể, ngoài hiện tượng nhoè nhạt và mở xoắn nhiễm sắc thể.

Tinh dầu ngải cứu có tác đụng kháng khuẩn đối với Proteus vulgaris, Síaphylococcus aureus, Diplococcus pneumoniae, Bacillus mycoìdes, Bacillus subtilis, Mycobacterium tuberculosis (giảm độc), Streptococcus hemolyticus, Salmonelỉa typhi, Shigella dysenterỉae, s. Ịỉexnerì; không tác dụng vói Bacterium pyocyaneum. Tinh dầu còn có tác dụng diệt Entamoeba moshkowskii với nồng độ ức chế tối thiểu 1:160. Một bài thuốc điều kinh trong có ngải cứu và 5 dược liệu khác đã được thử tác dụng trên tử cung cô lập chuột lang và thấy nước sắc của bài thuốc này (nồng độ 1/ 1.000 - 1/ 500) có tác dụng đặc hiệu gây co cơ trơn tử cung mà không làm co cơ trơn ruột của cùng con chuột lang. Ngải cứu khi thử riêng rẽ cũng có tác dụng đặc hiệu như vậy.

Ngải cứu cho động vật uống với liều gấp 10 lần liều bình thường trong một tuần không gây biểu hiện dộc và không làm biến đổi các thành phần của huyết thanh. Tinh dầu ngải cứu có tính chất kích thích làm cho say, alpha - thuyon có trong tinh dầu có tác dụng hưng phấn, nhưng dùng nhiều có thể gây diên cuồng. Nước cất lá ngải cứu làm điện phân đã điều trị cho 77 bệnh nhân mắc các bệnh khớp và chấn thương phần mềm. Kết quả tốt trên 60 bệnh nhân (hết sưng, hết đau). Kết quả khá và vừa trên 15 bệnh nhân. So sánh với điện phân bằng novocain, natri salicylat và pyramidon, thì thấy tác dụng điều trị điện phân bằng ngải cứu nhanh hơn, giảm đau tốt và không gây dị ứng. Điện phân novocain có thể gây dị ứng mẫn cảm ở bệnh nhân.

Siro ngải cứu dùng cho 20 bệnh nhi viêm cầu thận cấp, được theo dõi lâm sằng và cận lâm sàng, thấy thuốc có các tác dụng: giảm protein niệu rõ rệt, rút phù, giảm urê máu, tăng hệ số thanh thải và tăng đạm toàn phần trong máu. Sau 2 năm theo dõi chưa thấy tái phát, các cháu vẫn khoẻ, ăn mặn, protein niệu ám tính. Bài thuốc Lục vị hoàn phối hợp với ngải cứu, câu kỷ tử, trứng gà được áp dụng trên 13 bệnh nhân đục thuỷ tinh thể và theo dõi trong một năm, có kết quả tốt trong đục thuỷ tinh thể nhẹ được phát hiện sớm, hạn chế được bệnh tiến triển, tránh phải can thiệp bằng phẫu thuật.

Một loại cao dán từ một số tinh dầu trong có tinh dầu ngải cứu đã được bào chế để chữa sai khớp, bong gân, chấn thương. Hai bài thuốc trong có ngải cứu và một số dược liệu khác đã được nghiên cứu sản xuất để điều trị bệnh cao huyết áp và điều kinh có kết quả tốt. Bài thuốc trong có ngải diệp và 7 dược liệu khác dã dược điều trị cho 31 thai phụ sẩy thai liên tiếp, trong đó 26 người chưa có con và 5 người đã có 1 con. Thời gian điều trị trung bình 45 ngày. Kết quả là 31 người đã giữ được thai, tỷ lệ 93,7%. Nếu có triệu chứng doạ sẩy ra huyết hay động thai nhiều lần, kết quả điều trị không được tốt.

Tính vị, công năng

Ngải cứu có vị đắng, mùi thơm, tính ấm, vào ba kinh can, tỳ, thận, có tác dụng điều hoà khí huyết, trừ hàn thấp, ôn kinh, an thai, giảm đau, cầm máu, sát trùng.

Công dụng

Ngải cứu được dùng chữa kinh nguyệt không đều, đau kinh, bụng lạnh đau, nôn mửa đi lỵ, thổ huyết, chảy máu cam, da kinh, đái ra máu, bạch đới, đau dây thần kinh, phong thấp và ghẻ lở. Để điều kinh, một tuần lễ trước dự kỳ có kinh, uống mỗi ngày 6 - 12 g (tối đa 20g), dưới dạng thuốc sắc hoặc hãm, chia làm 3 lần uống trong ngày. Có thể uống dạng thuốc bột, ngày 5 - 10 g, hay thuốc cao đặc, ngày 1- 4g. Nếu có thai, thuốc không gây sẩy thai vì không có tác dụng kích thích đối với tử cung có thai. Ngoài ra, ngải cứu còn được dùng làm thuốc chữa giun và sốt rét. Ngải nhung được dùng làm mồi cứu. Loài ngải dại (A. vuỉgaris L. var. indica (Willd.) DC.) được dùng để thay thế ngải cứu.

Theo y học cổ truyền của Trung Quốc, lá ngải cứu được dùng làm thuốc cầm máu, hạ nhiệt, bổ toàn thân và trị tiêu chảy. Thuốc được chỉ định trong nhiễm độc thai nghén, viêm mủ da, đau dây thần kinh. Thân và lá ngải cứu khô đốt và hít khói chữa hen phế quản. Nước sắc phần trên mặt đất của ngải cứu dùng tắm để chữa sỏi thận và làm thuốc gây sẩy thai. Dạng thuốc mỡ ngải cứu để chữa một số bệnh da. Phần trên mặt đất của cây là nguyên liệu để làm mồi cứu, một phương pháp được dùng phổ biến ở Trung Quốc để chữa nhiều bệnh. Dùng uống dạng thuốc sắc, liều một lần 3 - 5g.

Trong y học Ấn Độ, lá và ngọn mang hoa ngải cứu được đùng dưới dạng nước hãm trong các bệnh thần kinh và co thắt. Còn được dùng làm thuốc sát trùng, gây long đờm, trừ giun, chữa thấp khớp.

Ở Nepal, rễ ngải cứu dược dùng làm thuốc bổ và chống co thắt. Cây được dùng làm thuốc điều kinh, trị giun, chống co thắt và làm dễ tiêu. Nước hãm lá và ngọn mang hoa đùng trị các bệnh thần kinh và co thắt, hen và bệnh về não. Nhân dân vùng trung tâm Haiti dùng lá ngải cứu làm thuốc chữa nôn dưới dạng nước sắc uống.

Nhân dân Trung Quốc và Nhật Bản dùng chồi ngải cứu để điều trị viêm gan, vàng da, viêm túi mật, và làm thuốc thông mật, chống viêm, giảm đau và lợi tiểu. Ở Philippin, nước sắc hoặc nước hãm lá ngải cứu chữa vết thương, làm long dờm, làm thuốc bổ dạ dày và điều kinh. Ở Indonesia, ngải cứu được dùng làm thuốc lợi tiểu, chữa trĩ, tiêu chảy, bệjih da và mụn lở. Ở Malaysia, ngải cứu trị mụn lở. Ở Thái Lan, rễ ngải cứu trị giun; lá chữa hen, làm thuốc hạ sốt, long đờm, diều kinh và trị tiêu chảy; hoa dùng trị hen và ho có đờm.

Bài thuốc có ngải cứu

1. Chữa ho: Lá ngải cứu, lá nguyệt bạch, cây bọ mắm, mỗi thứ một nắm; trà ngon, đủ pha một ấm, gừng 3 lát. Sắc uống ngày một thang.

2. Chữa thiếu máu: Ngải cứu, ích mẫu, hà thủ ô, lá sung, củ mài mỗi vị 20g; hạt sen, táo nhân, đảng sâm, thục địa, mối vi 12g. Sắc uống ngày một thang, hoặc làm viên một ngày uống 20 - 40g.

3. Chữa đái ra máu (Bể trung ích khí thang gia vị): Ngải cứu sao 12g, cỏ nhọ nồi sao 16g; hoàng kỳ bạch truật, đảng sảm, sài hồ, thạch bá chi, ngó sen sao, môi vị 12g; đương quy, trần bì, thăng ma, mỗi vị 8g; cam thảo 6g. sác uống ngày một thang.

4. Chữa đau lưng cấp khi vác nặng, lệch tư thế: Lá ngải cứu sao rượu đắp ấm tại chỗ.

5. Chữa sỏi đường tiết niệu không có cơn đau, không tiểu tiện ra máu, không đái buốt, đái dắt: Ngải cứu 16g, kim tiền thảo 40g, kê nội kim 8g. Sắc uống ngày một thang.

6. Chữa cảm thương hàn, đau đầu phát nóng, mạch thịnh: Ngải cứu khô 3 lạng sắc uống cho ra mồ hôi.

7. Chữa trúng phong cấm khẩu: Dùng lá ngải cứu , đốt cứu ở huyệt dưới môi và bên gốc hàm (phối hợp với một số bài thuốc khác dùng uống). 

8. Thuốc xoa bóp chữa phong thấp: Ngải cứu và phèn chua 2 vị cùng sao lẫn rồi đắp và bóp vào chỗ đau.

9. Chữa ỉa ra máu (sau khi ra phân mới ra máu): Ngải cứu, gừng Sống, sắc uống.

10. Chữa tỳ vị bị lạnh sinh đau: Ngải cứu tán nhỏ uống vổi nước chín.

11. Đề phòng bị gió sau khi khỏi đau mắt: Ngải cứu, lá từ bi, lá nhãn, lá quýt, bạc hà đều bằng nhau. Đun với nước, xông.

12. Chữa đầu phong, mặt lở ngứa chảy nước vàng: Ngải cứu 80g, giấm thanh 600g sắc lấy nước, lấy giấy mỏng dấp nước thuốc rồi đắp, mồi ngày 2 lần.

13. Chữa lưỡi co thun không nói dược: Lá ngải cứu tươi, giã vắt lấy nước bôi.

14. Chữa khí hư: Lá ngải cứu chưng với trứng gà mà ăn.

15. Chữa phụ nữ băng huyết: Lá ngải cứu khô một nắm, gừng khô một đồng cân, sắc lấy nưóc. Lấy nửa lạng a giao sao tán nhỏ hoà vào thuốc trên. Uống làm 3 lần. 

16. Chữa lở loét: Lá ngải cứu khô đốt tồn tính và tán bột rắc.

17. Chữa trĩ: Ngải cứu, hoa hoè, kinh giới, chỉ xác, đều bằng nhau, nấu nước, cho phèn chua vào. Xông và rửa.

18. Chữa kình chậm, lượng ít, màu nhạt hoặc xám đen:

a. Ngải cứu, thục địa, đảng sâm, mỗi vị 12g; xuyên khung, hà thủ ô, mỗi vị l0g; can khương, xương bồ, mỗi vị 8g. Sắc uống.

b. Ngải cứu 8g; đảng sâm, ngưu tất, mỗi vị 12g; xuyên khung, nghệ đen, quế chi, mỗi vị 8g; gừng tươi 2g. Sắc uống trong ngày.

19. Cao hương ngải điêu kinh, chữa tăng huyết áp: Ngải cứu, hương phụ, ích mẫu, lá bạch đồng nữ, mỗi vị 2g, thêm nước vào sắc kỹ, cô đến còn l0ml, thêm đường vào cho đủ ngọt. Đóng vào ống l0ml, hàn và hấp tiệt trùng (đun sôi và giữ sôi trong một giờ). Chữa kinh nguyệt không đều, thấy kinh đau bụng, khó sinh nở, khí hư. Ngày uống 3-6 ống. Muốn cho kinh nguyệt đều, uống 10 ngày trước ngày dự đoán có kinh. Uống trong 2-3 tháng. Có thể dùng lâu hơn. Còn dùng chữa cao huyết áp, ngày 2-3 ống.

20. Chữa kinh nguyệt kéo dài, máu ra nhiều: Lá ngải cứu khô 20g, nước l00ml, cô còn 20ml, thêm đường cho dễ uống. Chia làm 2 lần uống sáng và chiều. Uống hàng tháng từ ngày bắt đầu hành kinh.

21. Thuốc điều kinh: Ngải cứu 50g, ích mẫu 100g, hương phụ 100g. Dạng thuốc viên hoặc cao lỏng có đường. Ngày uống 2 - 3 lần, mỗi lần 10 - 15g.

22. Chữa đau bụng sau khi hành kinh: Ngải cứu 8g, đảng sâm 16g; hoài sơn, bạch truật, hà thủ ô, kê huyết dằng, ngưu tất, mỗi vị 12g; nhục quế, can khương, mỗi vị 6g. sắc uống trong ngày.

23. Chữa động thai (đang có thai đau bụng, ra máu):

a. Lá ngải cứu 16g, tía tô 16g, nước 600rnl, sắc đặc còn 100ml. Thêm đường cho dẻ uống. Chia uống 3-4 lần trong ngày.

b. Lá ngải cứu tươi 8g giã nhỏ, chế nưóc vào vắt lấy 2 chén nước cốt, hoà với một chén mật ong đun sôi, rồi thêm 10g cao da trâu hoà loãng dể uống.

24. Chữa trúng hàn thấp đau vùng tim bụng lan ra hông sườn: Ngải cứu, quế, gừng khô đều 8g, gừng sống 3 lát, sắc uống nóng.

25. Chữa sẩy thai liên tiếp: Ngải cứu 8g, củ gai 20g, tô ngạnh 16g, tang kỳ anh 16g, thục địa 12g, đương quy 10g, hoàng cầm 8g, cam thảo 4g. sắc nưóc uống. 26. Chữa trẻ em đau bụng do giun đũa: Lá ngải cứu tươi 8g giã nhỏ, chế nước sôi vào vắt lấy một chén to, uống vào lúc sáng sớm, sau khi đã cho ăn một miếng thịt nướng. Vài giờ sau đi ngoài thì giun ra.

27. Chữa rong kinh sau đặt vòng tránh thai:

a. Ngải cứu 8g, ích mẫu 20g; đào nhân, uất kim, nga truật, hương phụ, mỗi vị 8g. sắc uống.

b. Ngải cứu 12g, ngưu tất 16g; thục địa, cỏ nhọ nồi, mỗi vị 12g; xuyên khung, kỷ tử,quy bản, chi tử sao, mỗi vị 8g. sắc uống trong ngày.

28. Chữa băng huyết và rong huyết kéo dài lâu ngày: Ngải cứu 12g, thục địa 16g; bạch thược, cao sừng hươu, mỗi vị 12g; đương quy, xuyôn khung, a giao, phụ tử chế, mỗi vị 8g, thán khương 6g. sắc uống ngày một thang.

 

Có thể bạn quan tâm:

>> Bài thuốc nam hỗ trợ trị bệnh viêm phần phụ

>> Đông y điều trị hiệu quả và phòng tái phát bệnh viêm phần phụ

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC