Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần M

Muỗm

14:07 12/07/2017

Mangifera foetida Lour.

Tên đồng nghĩa: Mangiferafoetida var. cochinchinensis Pierre

Tên khác: Xoài hôi, xoài cà lăm.

Tên nước ngoài: Horse mango, batjant gray mango, bachang mango (Anh); mangue fétide (Pháp).

Họ: Đào lộn luột (Anacardiaceae).

Mô tả

Cây to, cao 10 - 15m, cỏ khi hom. Lá mọc so le, hình mác - thuôn, dài 15-30 cm, rộng 5-9 cm, goc thuôn, đầu có mũi nhọn, mép nguyên, hai mặt nhẵn, mặt trên sẫm bóng, mặt dưới nhạt.

Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc ngọn cành thành chùy phân nhánh đôi, màu đỏ đen nhạt; hoa nhiều màu lục vàng; đài có răng nhẵn, hinh bầu dục nhọn; tràng có cánh hình mũi mác hẹp, dài gấp 3 lần đài; nhị 4-5, một cái sinh sản dài bằng cánh hoa và 3 - 4 cái khác ngắn hơn; bao phấn không toàn vẹn.

Quả hạch, hình bầu dục tròn, khi chín màu vàng lục, trong chứa thịt màu vàng, vị ngọt chua.

Mùa hoa quả: tháng 3-7.

Phân bố, sinh thái

Muỗm hay còn gọi là "xoài hôi" vốn có nguồn gốc từ quần thể mọc tự nhiên trong rừng cây họ Dâu (Dipterocarpacene) ở bán đảo Malaisia, Thái Lan và các đảo lớn Sumatra và Borneo (Indonesia). Cây đã được đưa vào trồng từ lâu đời tại những nơi được coi là bản địa ở trên, cũng như ở nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á và Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Cây muỗm trồng ở Việt Nam, trên thực tế không biết một cách chính xác về xuất xứ và thời gian nào được đưa vào trồng. Vào khoảng trước năm 1990, muỗm có trồng ở nhiều tỉnh thuộc đồng bằng, trung du Bắc Bộ và Trung Bộ. Cây trồng thường phân biệt thành 2 giống chủ yếu là quả hình ô van và ô van tròn. Muỗm trồng ở miền Bắc có ưu điềm là năm nào cũng có quả (hoặc nhiều hoặc ít), trong khi đó các loại xoài, nếu hoa ra sớm vào đúng thời kì có đợt gió mùa Đông Bắc, sẽ không đậu được quả nào. Mặc dù vậy, muỗm trồng ở miền Bắc và miền Trung nay đã bị thay thế bởi các giống xoài mới có chất lượng và năng suất cao. Dây là giống cây trồng lâu năm có nguy cơ bị mất giống nên cần nhân giổng để bảo tồn nguồn gen.

Muỗm là cây gỗ nhỏ hay gỗ nhỡ trung bình Nghĩa là khi cây nhỏ ưa ẩm, chịu bóng, khi lớn ưa sáng và có thể hơi chịu hạn. Theo J. M. Bompard (1992) (trong: PROSEA No.2 - Edible fruits and nuts), muỗm là cây nhiệt đới điển hình. Cây mọc tự nhiên ở rừng, có thể lên tới độ cao 1.000m (Malaisia), nhưng cây được trồng lại ở vùng thấp Nhiệt độ trung bình năm thích nghi cho sự sinh trưởng vào khoảng 23 - 26"C; lượng mưa trên 1000 mm/năm. Cây có thể sống được trên nhiều loại đất, không bị ngập úng. Muỗm ra hoa quà hàng năm. tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt và hạt cũng là nguồn gieo giống cho trồng trọt và tạo gốc ghép cho các giống xoài khác.

Cách trồng

Muỗm là cây thân gỗ, sống lâu năm, được trồng lâu đời ở nước ta, nhất là các tỉnh miền Bắc.

Cây ưa khí hậu nhiệt đới, mùa hoa quà vào vụ xuân - hè. nếu khi ra hoa gặp rét nặng hoa sẽ rụng nhiều, khi có quả, gặp gió to cũng bị rụng nhiều.

Trước đây, cây được nhân giống chủ yếu băng hạt nhưng hiện nay người ta thường dùng cách ghép mất hay cắt cành vừa nhanh và tiện lợi, đông thời vẫn giữ nguyên phẩm chất của cây mẹ.

Thời vụ gieo trồng: Neu gieo bằng hạt thì khi quà chín vào mùa hè hay đầu thu, ta có thể lây hạt đem gieo ngay.

Còn trồng bằng mầm ghép phải qua 8 tháng đến 1 năm ở vườn ươm và đem trong vào mùa xuân.

Đất trồng muỗm cần thoát nước. Đào hố sâu khoảng 40 cm, bón lót phân chuồng mục (3 - 5kg/hô). Khoảng cách trồng 7 - 10m/cây. Khi trồng cân lấp đất, lèn chặt gốc và tưới nước ngay. 

Cây muỗm trồng ít phải chăm sóc. Khi còn nhỏ chi cần xới đất, vun gốc. về sau, khi cây trưởng thành, mỗi năm cần xới quanh gốc, bón thúc phân chuồng hoặc NPK. trước mùa hoa.

Muỗm thường bị bệnh muội đen lá và côn trùng cánh cứng hại cây. Chú ý, sớm phát hiện và diệt trừ kịp thời.

Bộ phận dùng

Vỏ.

Thành phần hoá học

Quả có 65% phần ăn được. 100g phần ăn được chứa nước 72,5g, protein l,4g, carbohydrat 25,4g, calci 21mg, phospho 15mg, thiamin 0,03mg, chất tương ứng với p - carotene 0,218mg và vitamin c 56mg [De Padua et al., Prosea 12(1), 1992, 210],

Theo Viện Dinh dưỡng Quốc gia 2000, quả muỗm chín chứa 82,9% nước, 0,6% protein, 0,4% lipid, 15.3% carbohydrat, 0,4% cellulose, 4%mg calci, 4%mg phospho, 0,2%mg sắt, 1905%mcg p - caroten, 0,06%mg vitamin B|, 0,06mg vitamin Bj, 0,9mg vitamin pp, 60%mg vitamin c [Viện Dinh dưỡng. Bảng thành phần dinh dưỡng thực phẩm VN-2000, 55],

Theo Wong K. c., 1992, quả chín chứa 84 thành phần bay hơi trong đó các ester chiếm 55,7%, các monoterpen có oxy 20,38%, chủ yếu là ethyl butanoat (CA 119,1993, 269431 w).

Tính vị, công năng

Vỏ cây muỗm vị chát, có công năng làm săn se. ở Việt Nam còn có 2 loài gần với muỗm là xoài Mcmgifera indica L và quéo Mcmgifera re ba. Ở Singapo còn có loài Mangifera odorata Griff. Qua nghiên cứu nhiễm sắc thể thấy loài M odorata là loài lai giữa M. indica và M. foetida. Ket quả nghiên cứu còn phát hiện thấy M. odorata gần với muỗm hơn với xoài. Đó có thể là do loài trung gian đã lai giữa xoài và muỗm lại lai ngược (backcrossing) với muỗm để trở thành loài lai ổn định là M. ociorata (Teo et al., 2002).

Công dụng

Vỏ cây muỗm được dùng để chữa đau răng và để cầm ia chảy. Để chữa đau răng, mỗi ngày dùng 10 - 20g vỏ, sắc đặc hoặc ngâm rượu, mỗi lần ngậm 10 - 20ml, ngày 4-6 lần, mỗi lần ngậm 1 phút rồi nhổ ra. Để chữa ia chảy, cũng dùng 10 - 20g vỏ thân, sắc đặc rồi uống. Quả muỗm dùng để ăn.

Ở Indonesia, nhân hạt thái lát. sao vàng, sắc uống để chữa ngứa, nhưng cần tránh nhựa của thân cây vì có thể gây viêm da [Perry et al., 1980: 15], quả ăn được [Med. herb, index, 1995: 363].

Bài thuốc có muỗm

Chữa đau răng và viêm lợi

Vỏ cây muỗm dùng riêng hoặc phối hợp với rễ xuyên tiêu thì hiệu quả tác dụng tốt hơn. Mồi ngày mỗi vị 10- 20g, sắc đặc, chia 4-5 lần, ngậm nước mỗi lần 10 - 15 phút rồi nhổ bỏ nước đi. Có thể ngâm rượu sau 10 ngày có thề dùng được. Ngày ngậm 4 - 5 lần. Người không ngậm được rượu, cần rót thuốc vào chén, rồi đặt vào một bát nước sôi để rượu bốc hơi, dễ ngậm hơn.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC