Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần H

Hà Thủ Ô Trắng

11:05 11/05/2017

Còn có tên là hà thủ ô nam, bạch hà thủ ô, củ vú bò, dây sữa bò, dây mốc, cây sừng bò cây đa lông, khâu cần cà (Thổ), khâu nước (Lạng Sơn), mã liên an, mã lìn ón, khua mak tang ning (Lào), khua khao (Luang Prabang, chừa ma sìn (Thái).

Tên khoa học Streptocaulon juventas (Lour) Merr. (Apocynum juventas Lour., Tylophora juventas Woodf.)

Thuộc họ Thiên lý Asclepiadơceae.

A. Mô tả cây

Hà thủ ô trắng là một loại dây leo dài từ 2 đến 5m. Thân và cành màu hơi đỏ hay nâu đỏ, có rất nhiều lông, khi già thì nhẵn dần. Lá mọc đối, hình mác dài, đầu nhọn, đáy tròn hoặc hơi hình nón cụt, có lông mịn và nhiều ờ mặt dưói, mặt trên cũng có lông ngắn hơn. Phiến lá dài 4^ 14cm, rộng 2-9cm, cuống lá dài 5-8cm cũng có nhiều lông. Hoa màu nâu nhạt hoặc vàng tía mọc thành xim, rất nhiều lông. Quả đại tách đôi ngang ra trông như sừng bò (do đó có người gọi là cây sừng bò). Quả hình thoi, màu xám nhiều lông, dài 7-llcm, rộng 8mm. Hạt dẹt, phồng ở lưng, dài 5-7mm, rộng 2mm, có chùm lông mịn dài 2cm Vì cây có nhiều lông trông như mốc cho nên có nơi còn gọi là dây mốc. Toàn cây bấm thân, lá, quả non chỗ nào cũng ra thứ nhựa trắng như sữa cho nên có tên cây sữa bò. Tên mã liên an có nghĩa là ngựa liền với yên, vì người ta kể rằng xưa có một ông tướng cưỡi ngựa đang đi bỗng bị cảm chết, được một người dùng cây này chữa sống lại liền biếu cả ngựa và yên để tạ ơn.Từ trước đến lần xuất bản lần thứ 6, chúng tôi văn đưa tên mã liên an và hà thủ ô trắng vào cùng một tên khoa học Streptocaulon juventas.

Nhưng từ năm 1974, chúng tôi tham khảo những tài liệu sách thuốc của Trung Quốc, thấy tên vị mã liên an có tên khoa học là Streptocaulon griffithii Hook. f., còn có tên Streptocaulon juventas (Lour.) Meư. thì chỉ có tên Trung Quốc là ám tiêu đằng, còn Việt Nam ta được gọi hà thủ ô trắng. Trong Thực vật chí Đông dương thời Pháp viết lại thì ở nước ta có cây Streptocaulon griffithii nhưng không có tên Việt Nam. Tên mã liên an do chúng tôi lấy được một người dân tộc vùng Câu Sơn dương (Tuyên Quang) cho tên. Theo lời kể, Bác Hồ bị cảm sốt nặng vào tháng 7-1945, được một ông lang người dân tộc dùng củ cây này chữa khỏi. Cho nên Bác Hồ có dặn các đội viên trong Đội tuyên truyền giải phóng quân (trước Cách mạng) hễ thấy cây này thì hái lấy, mang theo mình phòng khi cần đến. Có thể đây là một vị thuốc chữa cảm sốt mới.

Hà thủ ô trắng và tác dụng chữa bệnh của nó

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây hà thủ ô trắng mọc hoang ở khắp những đổi núi trọc ờ nước ta. Thường ưa những nơi đất đồi cứng vùng Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Rễ củ dài mẫm và trắng, giữa có lõi trông như củ sắn nhưng có vị đắng. Đào quanh năm nhưng tốt nhất vào mùa đông hay đầu mùa xuân. Đào về thái mỏng phơi khô.

C.Thành phần hoá học

Chưa có tài liệu nghiên cứu. Sơ bộ tìm hiểu hà thủ ô trắng tươi mới đào về ở Vĩnh Phúc, chúng tôi thấy có nhiều tinh bột và một chất có phản ứng ancaboit có tinh thể chưa xác định (Đỗ Tất Lợi, 1949).

D. Tác Dụng dược lý

Chưa có tài liệu nghiên cứu .

E. Công dụng và liều dùng

Các thầy thuốc Việt Nam coi vị hà thủ ô trắng có cùng một công dụng với hà thủ ô đỏ là làm cho người già trẻ lại, giúp cho sự giao hợp được bền lâu, tóc bạc hoá đen. Công ty dược liệu của ta vãn thu mua và bán chung với hà thủ ô đỏ, trong các đơn thuốc thường dùng một nửa hà thủ ô đỏ, một nửa hà thủ ô trắng. Có khi để nguyên không chế biến mà dùng. Nhưng cũng có khi chế biến như đối với hà thủ ô đỏ. Liều và cách dùng như hà thủ ô đỏ. Theo sự điều tra của bản thân tôi, trong kháng chiến tại các vùng dân tộc, người ta dùng củ và thân lá cây này chữa cảm sốt, cảm nắng, sốt rét. Có nơi người ta sắc cây này với nước cho phụ nữ đẻ mà không có sữa uống để ra sữa. Cần chú ý nghiên cứu.

Chú thích:

1. Không phải riêng Việt Nam ta dùng một cây khác với tên hà thủ ô trắng. Tại các vùng Sơn Đông, Trung Quốc, nhân dân dùng với tên bạch thủ ô (hà thủ ô trắng) rễ của cây bạch tiền Cynanchum bungei Dcne hoặc rễ của cây ngưu bì tiên Cynanchum wilfordii Hemsl. cùng họ Thiên lý Asclepiadaceae. Tại vùng Nam Kinh người ta dùng rễ cây nhĩ diệp ngưu bì tiên Cynanchum auricuỉatum Royle cùng họ Thiên lý. Những cây kể trên hơi giống cây hà thủ ô trắng của ta. Có thể trước đây một số người Trung Hoa biết thuốc nam ở vùng Sơn Đông và Nam Kinh sang sinh sống ờ Việt Nam vì thấy gần giống nên dùng thay thế rồi truyền lại mãi thành quen.

2. Từ năm 1935 trờ về trước, các tài liệu cũ cũng như Ch. Crévost và A. Pételot đã xác định cây hà thủ ô trắng là Tylophora ovata Hook. Nhưng năm 1953, A.Pételot đã xác định lại tên chính của cây này là Streptocauỉon juventas (Lour.) Merr. Vậy khi sử dụng tài liệu nên chú ý.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC