Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần C

Chút chít nhăn

17:06 02/06/2017

Rumex crispus L.

Tên khác:           Chân dê, dương đề nhãn.

Họ:       Rau răm (Polygonaceae).

Mô tả

Cây thảo, sống dai, cao 0,4 - 1m. Rễ mập hình trụ, cỏ khía dọc, ăn sâu xuống đất, màu nâu, đôi khi phân nhánh, rễ nhỏ rất nhiều, hình sợi. Thân thang, cành ngắn. Lá mọc so le, có cuống dài, hình thuôn - mũi mác, gốc có bẹ, đẩu nhọn hoặc tù, mép uốn lượn, những lá phía dưới có gốc bàng hoặc hình tim, những lá giũa thắt lại ở hai đầu, những lá phía trên nhỏ, hình dải hẹp, gân lá rộp lên thành mạng lưới.

 Cụm hoa mọc ở đầu cành và ngọn thân thành chuỳ mang những lá nhỏ suốt chiều dài của chuỳ; hoa màu vàng lục xếp thành nhiều vòng rất sít nhau, bao hoa có 6 mảnh xếp thành hai vòng, những mảnh ở vòng trong có 1 - 2 răng dài ở mỗi bên mép; nhị 6, đính ở gốc của bao hoa; bầu thượng có 3 cạnh.

Quả hình 3 cạnh nằm trong bao hoa tồn tại như những chiếc cánh mỏng.

Phân bố, sinh thái

 Chi Runiex L. trên thế giới có khoảng 200 loài, phân bố chủ yếu ở vùng ôn đới ấm bắc bán cầu, song cũng có nhiều loài phân bố xuống vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới; có loài còn được trồng làm rau ăn. Ở Việt Nam, trong số 7 loài đã biết, có tới 6 loài dùng làm thuốc ở các mức độ khác nhau. Chúng phân bố rải rác từ vùng núi xuống đồng bằng, trong đó loài chút chít nhăn phân bố chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, bao gồm ngoại thành Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam, Ninh Bình,...

Chút chít nhăn là cây ưa ẩm, ưa sáng, sống 1 hoặc nhiều năm. Cây thường mọc ở bờ mương nước, bãi sông, bờ ao hay là ở nơi đất ngập nước nhưng khô vào mùa đông và mùa xuân. Cây mọc từ hạt xuất hiện vào gần cuối mùa đông, sinh trưởng mạnh trong mùa xuân, sau đó ra hoa quả và có thể tàn lụi vảo đầu mùa hè.

Trong số các loài thuộc chi RinneX L. dùng làm thuốc ờ Việt Nam, có lẽ đây là loài có củ lớn nhất. Vì thể những người đi thu mua cũng thường đặt hàng loài này để khai thác.

Bộ phận dùng

 Rễ (củ).

Thành phần hoá học

 Lá chứa 92,6 protein, 1,5 chất béo, 0,3 carbohyđrat toàn phần, 4,1% chất xơ. Ngoài ra. còn có Ca 74, p 56, Fe 5 - 6, vitamin A 1,38, thiamin 0,06, riboflavin 0,08, acid nicotinic 0,4, acid ascorbic 30 mg%.

 Rễ chứa nepodin, clirysophanol, emodin, physcion, 1,8 - dihydro - 3 - methyl - 8 - antiiron, chrysophancin, acid chrysophanic.

Có tài liệu cho biết rễ chứa 1,8 - dihydroxy - 3 - methyl - 9 - anthron, acid chrysophanic, einodin. Hàm lượng anthranoid là 2,17%.

Theo Deinirezer et al. 1994, hàm lượng anthraquinon glvcosid trong các bộ phận: rễ, thân, lá và quả theo thứ tự là 1,17, 0,54, 0,66 và 0,49%.

Có tài liệu cho biết hàm lượng anthraquinon glycosid trong rễ, thân, lá theo thứ tự là 2,93%, 0,08% và 0,21%.

Theo J. L. C. H. van Valkenburg et al., 2001, chút chít nhăn chứa oxymethylanthraquinon 0,2%, emodin 0,1% ở rễ, rumicin, physcion, chrysophanol, emodin, aloe - emodin, rhein cùng với các glucosid của chúng ờ các bộ phận trên mặt đất.

 Ngoài ra, rễ còn có ß - sitosterol, vitamin c (nhiêu), tanin. Toàn cây cỏ 7 - 11% acid oxalic.

 Dubi – Lengyel Emma et al, 1991, đã phân lập được 2 protoantliocyanidin. Sau khi phân huỷ các protoanthocyanidin này bằng acid, các tác giả đã chiết xuất và nhận dạng được các chat cyanidin và (+) catechin, (-) epicatechin. Bằng phản ứng ức chế enzym phosphodiesterase, dự kiến các chất này cỏ khả năng ức chế ngưng tập tiểu cầu.

[Trường đại học Dược Trung Quốc, Trung dược từ hài, I, 1993. 1037; Sastri et al., IX, 1972; Ram P. Rastogi et al., II, 1999, V, 1999; J. L. C. H. van Valkenburg et al„ 2001; CA 12 i, 1994: 31173e; CA 113, 1990: 210424u].

Tác dụng dược lý

1.                 Tác dụng kháng khuẩn

 Đã nghiên cứu tác dụng kháng vi sinh vật của 6 loại cao của cây chút chít nhăn: cao chiết từ hạt và từ lá bằng ether, bằng ethanol và bằng cách chiết vói nước nóng trên Staphylococcus aureus Bacillus subtilis. Kết quả cho thấy, cao ether của cả hạt, cùa lá cũng như cao ethanol cùa lá có tác dụng ức chế sự phát triển cùa cả hai vi khuẩn trên; còn cao chiết nước nóng của cả hạt, cả lá đều không có tác dụng (Yildlrim et a!.. 2001 ).

2.                 Tác dụng chống oxy hoá và (quét dọn gốc tự do)

 Đã nghiên cứu tác dụng chống oxy hoá (khả năng khử) và quét dọn gốc tự do DPPH (2,2 - diphenyl - 1 - picrylhydrazyl) của hợp chất phenol tổng số và 6 cao của chút chít nhăn: cao ether của hạt (1) và lá (2); cao ethanol của hạt (3) và lá (4) và cao chiết nước nóng của hạt (5) và lá (6) cây chút chít nhăn.

Tác dụng chống oxy hoá dira vào nhũ dịch acid linoleic (acid mạch thẳng có 18 c và 2 nối đôi ở c 9 và c 12) trong nưóc sẽ sinh ra peroxyd (lipoperoxyd). Thuốc có tác dụng chống oxy hoá sẽ ức chế tạo thành peroxyd.

Nghiên cứu tác dụng quét dọn gốc tự do DPPH dựa vào tính chất DPPH trong methanol hoặc ethanol sẽ tạo thành gốc tự do bền, định lượng được bằng cách đo mật độ quang học (ở bước sóng 517nm). Nếu chất có tác dụng dọn gốc tự do thì DPPH giảm đi và mật độ quang sẽ giảm.

Kết quả:

 a)Tác dụng chống oxy hoá của tất cả 6 cao đều tăng khi nồng độ của các cao tăng trong phạm vi nồng độ 50 – 150 mg/ml;

b)Cao nước của lá (cao 6) và của hạt (cao 5) cho tác dụng chống oxy hoá mạnh nhất;

c)Cao nưóc của lá (6) và hạt (5) nồng độ 75(ag/ml ức chế sự tạo thành peroxyd theo thứ tự là 96% và 94%;

d)Tác dụng chống oxy hoá cao etlianol của hạt (3) thấp hơn cao nước (5), nhưng sự khác nhau không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05);

e)Cao ether của hạt (1) ở nồng độ 75mg/ml không có tác dụng chống oxy hoá có ý nghĩa so với lô đối chứng không dùng thuốc (p > 0,05);

g)Cao ethanol của hạt (3) có hàm lưọng flavonoid tổng số cao nhất, còn cao ether của hạt (1) có hàm lượng flavonoid tổng số thấp nhất;

h)Tác dụng chống oxy hoá của cao ethanol (3) cùa hạt bẳng khoảng 40% tác dụng của acid ascorbic;

i)Cao ethanol của hạt (3) có tác dụng dọn gốc tự do DPPH mạnh nhất, sau đó là đến cao nước của hạt (5);

 k) Cao nước của hạt (5) và cao ethanol của hạt (3) ở nồng độ 400 mg/ml có tác dụng quét dọn gốc DPPH theo thứ tự là 85% và 90%.

Kết luận: Có mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa hàm lượng cùa hợp chất phenol và tác dụng chống oxy hoá (hoặc khả năng khử) (với r = 0,99; p < 0,01), cũng như giữa hàm lưọng của hợp chất phenol và tác dụng quét dọn gốc tự do DPPH (với r = 0,864; p < 0,05). Qua phân tích cũng thay rõ có mối tương quan giữa tác dụng chống oxy hoá và tác dụng quét dọn gốc tự do DPPH (vói r = 0,892; p < 0,05) (Yildirim et ai., 2001).

3.Tác dụng trên ung thư

Cấy vào cơ đùi chuột nhắt trắng tế bào u Sarcom - 37. Sau 6 ngày tiêm dưới da dịch chiết ethanol của rễ chút chít nhãn. Sau 24 giờ (6 - 48 giờ), bóc tách mô u đã cấy và xét nghiệm, thấy thuốc có gây tổn thương mô u [Chang Minyi, 1992:71],

4.Tác dụng nhuận tràng

Chút chít nhăn có dẫn chất anthraquinon như oxymethylanthraquinon (0,2%) và emodin (0,1%) trong rễ; rumicin, physcion, chrysophanol, emodin, aloe - emodin, rhein và các glycosid của chúng ở các bộ phận trên mặt đất của cây. Các chất có anthraquinon có tác dụng nhuận tràng. Nguyên nhân là do ở ruột già, vi khuẩn thuỷ phân các glycosid và khử anthraquinon thành anthron. Anthron có tác dụng trực tiếp trên ruột già, kích thích nhu động ruột nên gây ra nhuận tràng [Van Valkenburg et al., 2001, vol. 2: 480],

5.Tác dụng gây nhiêm độc oxalat

 Cừu cái trưởng thành nhốt trong một vườn trồng chút chít nhăn để cho cừu ăn. Sau 40 giờ, nhiều cừu bị nhiễm độc do ăn chút chít nhăn mà biểu hiện là nhiễm độc oxalat. Các biểu hiện lâm sàng là nhiều dãi đầm đìa, run, mất điều hoà vận động, nằm một chỗ. Các biểu hiện khác là hạ calci huyết, tăng urea huyết, phù quanh thận và thoái hoá ống thận, nhận thấy rất rõ sau ngày thử 3 nhiễm độc. Mẫu chút chít nhăn đã được định lượng acid oxalic và thấy hàm trọng acid oxalic lên đến 6,6 - 11,1% so với khối lượng cây khô (Panciera et aL 1990). 

Tính vị, công năng

 Rễ chút chít nhăn vị đắng tính hàn; có còng năng thanh nhiệt, thông tiểu, nhuận tràng, sát trùng.

 Ở Trung Quốc, sách "Thảo mộc tiện phương" và sách "Đông Bắc thường dụng Trung thảo dược thủ sách" đều ghi: vị đắng, tính hàn. Còn sách "Thiểm Cam Ninh Thanh Trung thảo dược tuyển" ghi: chút chít nhăn vị đắng, chua, tính hàn, có độc ít. Về qui kinh, rễ chút chít nhăn nhập vào các kinh tâm, can và đại tràng. Sách "Cao nguyên Trung thảo dược trị liệu thù sách" cũng ghi qui kinh như trên. Nhưng sách "Mân Đông bàn thảo" lại ghi nhập cả kinh tỳ. Rễ chút chít nhăn có công năng thanh nhiệt, lương huyết, chỉ khái, hoá đàm, thông tiện, sát trùng [TDTH, 1993, tập 1: 1037]. Lá chút chít nhăn có công nàng thanh nhịêt giải độc, thông lợi đại tiện được dùng trị táo bón [TDTH, 1993, tập 1: 1038], và rễ chút chít nhăn có công năng thông huyết mạch, phục hồi sức sống và sức mạnh [Chang Minyi, 1992: 71].

Công dụng

Rễ chút chít nhăn được dùng để điều trị thiếu máu, ho lao, viêm gan, vàng da, thấp khớp mạn tính, đái tháo đường. Ngày dùng 15 - 20g sắc lấy nước uống. Có thể nghiền rễ thành bột mịn, uống mỗi lần 1 - 2g, ngày 2-3 lần, nhưng đắng khó uống. Thường nghiền thành bột mịn, chiêu với mật hoặc mật ong làm thành viên, mỗi viên 0,5g, phơi khô. Khi cần, uổng mỗi lần 2 - 4 viên vào bữa ăn, ngày 2-3 iần. Dùng ngoài, để trị bệnh ngoài da như hắc lào, nấm tóc, eczema, lở loét, nhọt bọc, lấy rễ tươi giã nát đắp lên chỗ da bị bệnh. Rễ khô, tán thành bột mịn. chiêu với nước, rồi đắp lên. Để trị bạch đới, nấu nước rồi xông.

 Ở một số nước Âu Mỹ, rễ chút chít nhăn được coi là thuốc bổ chống thiếu máu và để lọc máu, chữa bệnh gan, đau họng. Dùng ngoài chữa viêm da mạn tính, sưng hạch lympho, đau sưng khớp, thấp khớp. Rễ chút chít nhăn nói chung là gây nhuận tràng (do có anthraquinon), nhưng tuỳ theo thời gian thu hái, liều dùng và hàm lượng tanin, nếu tanin nhiều lại có tác dụng chống ỉa chảy [Foster và Duke, 2000: 243],

Ở Indonesia, toàn cây chút chít nhăn được dùng để nhuận tràng, chữa sốt và gây trung tiện [Med. herb index, 1995: 33], Ở Đài Loan (Trung Quốc) rễ cliíit chít nhăn được dùng trong bình tắm hơi để chữa đau mắt, lở loét ngoài da. Dùng trong, sắc uống để hạ sốt, nhuận tràng và gây trung tiện.

Ở Ấn Độ, rễ chút chít nhăn được dùng làm thuốc bổ đắng, chữa khó tiêu và có tác dụng an thần như đại hoàng và thổ phục linh, được dùng khi bị sưng hạch lympho hoặc các hệ tuyển khác, để chữa giang mai, bệnh gan; có tác dụng nhuận tràng vừa phải, nhưng lại săn se. Hạt chút chít nhăn cũng được dùng làm thuốc bổ đắng, kích thích ăn uống, được dùng khi bị lỵ mạn tính, chống buồn nôn [Nadkarni, 19,99: 1079].

Ở Trung Quốc, toàn cây chút chít nhăn được dùng làm thuốc hạ sốt, tẩy giun, loại bỏ được mủ và các chất độc, được dùng trị bệnh nấm da đầu, nhọt ở mỏng và nhọt độc. Rễ chút chít nhăn để hạ sốt, làm mất máu, giãn cơ trơn ruột, được chỉ định trong điều trị viêm gan cấp, vô kinh, đau căng bụng. Chống chỉ định trong điều trị ỉa chảy do suy tụy. Mới đây được dùng chữa trong một số dạng ung thư.

a)           Chữa ung thư da: Rễ chút chít nhăn, nấu thành cao với nước, dùng bằng gạc, nhúng vào cao đặc rồi đắp xung quanh chỗ tổn thương da, và thay bằng thường xuyên.

b)          Chữa bệnh bạch cầu cấp: Dùng 30 - 60g rễ, sắc uống mỗi ngày. Dùng luôn nhiều ngày.

 c) Bài thuốc chữa bệnh bạch cầu cấp: Rễ chút chít nhăn 60g; toàn cây vấn vương > 60g, còn 2 vị chưa thấy ở Việt Nam là Radix Arnebiae 60g, và Cortex Moutan 9g. sắc uống ngày 1 thang, uống nhiều ngày liền [Chang Minyi, 1992: 71],

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC