Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần Đ

Đằng Hoàng

11:06 05/06/2017

Garcinia hanburyi Hook.f.

Tên khác: Vàng nghệ, vàng nhựa, trân huỳnh.

Họ: Măng cụt (Guttiferae). 

Mô tả

Cây to, cao 10-20 m. Thân mọc thẳng, nhẵn, phân nhiều cành loà xoà. Lá mọc đối, hình bầu dục hay hình mác, gốc tròn, đầu tù hơi nhọn, dài 10-20 cm, rộng 3-10 cm, mép nguyên, hai mặt nhẵn.

Cụm hoa khác gốc gồm hoa đực và hoa cái, đều mọc ở kẽ lá; lá kèm nhỏ; hoa đực đơn độc hoặc tụ họp 3-6 cái; hoa cái to hơn hoa đực.

Quả mọng, gần hình cầu, đường kính 2 - 5 cm, có đài tồn tại, gồm 4 ngăn, mỗi ngăn chứa một hạt hình cung.

Mùa hoa: tháng 11-12, mùa quả: tháng 4-5.

Phân bố, sinh thái

Garcinia L. là chi cỏ nhiều loài nhất trong họ Clusiaceae ở Việt Nam, với tổng sổ 29 loài. Loài đằng hoàng trên mới chỉ thấy phân bố ở các tỉnh phía Nam như: Gia Lai (Măng Yang, Đắk Đoa, Kon Hà Nừng); Đắk Nông (Đắk Mi), Nam Đà, Đức Minh); Đồng Nai (Trảng Bom) và Kiên Giang (đảo Phú Quốc). Trên thế giới, cây phân bố ở Ấn Độ, Campuchia, Thái Lan và Malaysia (Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam, 2003).

Đằng hoàng là loại cây gỗ nhỡ ưa sáng và hơi chịu bóng khi còn nhỏ. Cây mọc rải rác ở rừng kín thường xanh, nhất là ở cửa rừng và dọc theo các bờ khe suối. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm, tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt, nhưng do cây mọc gần bờ suối hay cửa rừng nên khi quả già rụng xuống thường bị nước cuốn trôi. Gỗ đằng hoàng mềm nên không đưọc chú ý nhiều trong khai thác.

Thành phần hóa học

Nhựa đằng hoàng chứa nhiều hợp chất xanthon đa số các chất này có tác dụng sinh học quan trọng.

Tác dụng dược lý

Acid gambogic là một hợp chất xathon và là thành phần có hoạt tính chiết tách từ nhựa của các loài cây Garcinia khác nhau, trong đó có cây đăng hoàng đã được đánh giá về tính ổn định trong nhiều điều kiện thử nghiệm. Acid gainbogic ổn định khi hoà tan trong aceton, acctonitril và clorofonn, thậm chí cả khi cho thêm acid.

Tuy vậy, một dẫn xuất đã được sản sinh sau khi bảo quản acid gambogic trong dung dịch methanol trong một tuần lễ ở nhiệt độ phòng. Việc cho thêm kiềm có thể làm tăng tốc độ biến đổi hoá học. Dẫn xuất này được xác định là acid eambogoic. Trong thử nghiệm hai chất này về hoạt tính độc hại tế bào, acid gambogoic thể hiện tác dụng ức chế ung thư yếu hơn có ý nghĩa so với acid gambogic (Hail Q.B et al., 2005).

Acid gambogic đã được phát triển thành một thuốc chống ung thư để thử nghiệm lâm sàng bằng đường tiêm tĩnh mạch ỏ Trung Quốc vào những năm 1970. Acid gambogic đã được tách thành hai epimer (1 và 2) từ nhựa màu vàng của cây đằng hoàng. Cả hai epimer đã được nghiên cứu về tác dụng độc hại tế bào đối với các dòng tế bào bệnh bạch cầu người K562 nhạy cảm (K562/S) và K562 kháng (K562/R) đối với doxorubicin. Khác với doxorubicin có nồng độ ức chế 50% (ICso) là 10,78 ụM đổi với K562/R và 0,66 uM đối với K562/S, các epimer 1 và 2 của acid gambogic thể hiện các hoạt tính tương tự đối với cả hai dòng tế bào (IC50 = 1,32 và 0,89 uM đối với epimer 1; IC50= 1,11 và 0,86 uM đối với epimer 2).

Các kết quả này gợi ý là cà hai epimer không phải là các cơ chất đa kháng thuốc. Hơn nữa, các epimer 1 và 2 đã được nghiên cứu về tác dụng ức chế đối với sáu enzym cytochrom p - 450 người. Các epimer 1 và 2 thể hiện tác dụng ức chế yếu đối với năm enzym, trừ CYP2C9. Đáng chú ý, trong thử nghiệm đối với CYP2C9, s - epimer 2 có tác dụng ức chế mạnh hơn gấp 20 lần so với tác dụng ức chế của R - epimer ] (Han Q.B et al., 2006).

Nhiều hợp chất xanthon phân lập từ cao chiết ethyl acetat của nhựa và quả đằng hoàng đã được chứng minh có hoạt tính độc hại tế bào trên nhiều dòng tế bào ung thư động vật có vú. Hợp chất mới 8,8a - epoxvmorellic acid cùng với các hợp chấtt đã biết desoxymorellin, acid morellic acid iiambouic, hanburm, forbesion và dihydroi- somorellin đã thể hiện hoạt tính kháng HIV - 1 trong thử nghiệm trên enzym sao chép ngược (reverse transcriptase), trong khi các hợp chất đã biết desoxvgambogenin và dihydroi-somorellin được chứng minh có hoạt tính mức độ vừa trong thử nghiệm trên hợp bào. Đây là báo cáo đầu tiên về hoạt tính kháng HIV - 1 của hợp chất xanthon (Reutrakul V et al., 2007).

Cao chiết với ethyl acetate từ đằng hoàng được đánh giá về tác dụng chống viêm, giảm đau và hạ sốt trên các mô hình thực nghiệm trong động vật. Đã nhận xét thấy cao chiết này có tác dụng ức chế giai đoạn viêm cấp tính thể hiện trên thử nghiệm phù tai gây bởi ethyl plienvlpropriolat và phù bàn chân gây bởi carragenin ở chuột cống trắng. Tuy vậy, cao chiết này không ức chế phù bàn chân chuột gây bởi acid arachidonic. Trong mô hình viêm bán cấp, cao chiết đằng hoàng gây giảm có ý nghĩa cả hai giai đoạn thấm dịch và tăng sinh trong thử nghiệm trên mô hình u hạt gây bởi viên bông, và cũng làm giảm hoạt tính của phosphatase kiềm trong huyết thanh chuột cống trắng trong mô hình này.

Trong thử nghiệm giảm đau, cao chiết đăng hoàng gây tác dụng ức chế đáp ứng quặn đau gây bởi acid acetic và ức chế cả hai giai đoạn sóm và muộn của thử nghiệm formalin. Ngoài ra, cao này còn có tác dụng rất tốt hạ sốt trong thử nghiệm gây sốt cho chuột bằng men bia. Có thể các hoạt tính chống viêm giảm đau và hạ sốt của cao chiêt đằng hoàng là do ức chế sự sinh tổng hợp prostaglandin (Pathong A. et al., 2007).

Công dụng

Đằng hoàng vị chua chát, có độc tính cao, có tác dụng tẩy xổ mạnh. Nếu dùng hơi quá liều thì gày viêm ruột, chảy máu ruột, nôn mửa, đau bụng, hôn mê mà chết nên đằng hoàng được dùng chủ yếu để chữa bệnh ngoài da, sát trùng, dùng bôi mụn nhọt, vết thương (Lê Trần Đức, 1997: 1358 - 1359; Đỗ Tất Lợi, 1999: 471 -472).

Trong y học dân gian Thái Lan, nhựa từ vỏ cây đằng hoàng được dùng ngoài trị vết thương nhiễm khuẩn và dùng trong trị phù. Nó được dùng trong thú y làm thuốc tẩy mạnh. Liều cao có thể gây buồn nôn, nôn và đau bụng quặn. Nó thường được phối hợp với các thuốc tẩy khác như lô hội hoặc calomel để làm tăng tác dụng (Panthong A. et al., 2007).

Bài thuốc có đằng hoàng

Cao bôi ngoài da chữa đơn độc, nụm nhọt, vết thương:

Đằng hoàng 160g, dầu vừng 480g, sáp ong trắng 320g. Trước hết nấu dầu vừng cho đến khi nhỏ thành giọt, rồi cho hai vị trên vào quấy đều. Đem đựng vào lọ, trên đổ thêm một lóp dầu vừng để bảo quản, khi dùng lấy ra bôi (Lê Trần Đức, 1997:1358 -1359).

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC