Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần H

Hoa Sói Rừng

14:07 11/07/2017

Sarcandra glabra (Thunb.) Nakai

Tên Đồng Nghĩa: Chloranthus brachystachys Blume Biadhia glabra Thunb.

Tên Khác : Sơn kê trà, sói láng, co nộc sa (Thái), sáng cáy sà (Hoa).

Họ: Hoa sói (Chloranthaceae).

Mô tả

      Cây nhỏ, cao chừng 1m. Thân hoá gỗ, tròn, nhẵn. Lá mọc đối, hình mác thuôn, dài 8 - 14 cm, rộng 3,5 cm, góc thuôn hẹp, đầu nhọn, mép khía răng, hai mặt nhẵn.

      Cụm hoa hơi phân nhánh, mọc thành bông ở ngọn cành; lá bắc dài, hình mác nhọn; hoa to, có 1 nhị, bao phấn đày gần hình trụ.

    Quả mọng, gần hình cầu, khi chín màu đỏ.

     Mùa hoa quả: tháng 3 - 4 và 8 - 10.

Phân bố, sinh thái

      Chi Sarccmdra Gardn. chỉ có một loài hoa sói rừng ở Việt Nam.

      Hoa sói rừng có nguồn gốc ở vùng Đông Á, phân bố ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Malaysia, Indonesia, Ẩn Độ. Ở Việt Nam, hoa sói rừng phân bố rải rác ở các tình miền núi: Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hoà Binh. Ninh Bình, vùng núi Ngọc Linh tinh Quảng Nam và Kon Tum.

      Đó là cây ưa ẩm, chịu bóng, thường mọc trên đất ẩm nhiều mùn, dưới tán rừng, nhất là loại rừng núi đá vôi. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm. những nhánh thân đã ra hoa quả sẽ tàn lụi sau một năm và từ gốc sẽ mọc lên một sổ nhánh thân mới.

      Hoa sói rừng tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt, song do quả chín thường là thức ăn của động vật gặm nhấm nên lượng cây con xung quanh gốc cây mẹ ít.

Bộ phận dùng

     Toàn cây, rễ.

Tác dụng dược lý

1. Tác dụng chống ung thư

      Cao khô toàn cây hoa sói rừng có tác dụng ức chề sự phát triền tế bào u báng (ascites) L - 415 và ức chế tế bào u sarcom S - 180 là 30,5 - 56,7% ở chuột nhất trấng [Kee Chang Huang, 1999, The pharmacology of Chinese herbs, 2nd Ed., CRC Press, Boca Raton - London - New York - Washington DC, tr. 475],

     Cao chiết từ toàn cây hoa sói rừng có tác dụng ức chế 30 - 50% ung thư tự nhiên, tế bào Cancer - 615 ở chuột nhắt trắng, kéo dài thời gian sống của chuột nhắt trắng bị bệnh bạch cầu, tế bào u báng L - 771 là 160% [Chang Minyi,1992, Anticancer medicinal herbs, Hunan Science and Technology publishing house (China), p.3],

        Isofraxidin được chiết xuất từ cây hoa sói rừng có tác dụng ức chế mạnh hệnh bạch cầu dòng lympho. Cao và các hoạt chất phân lập được từ toàn cây bản thân không độc với tế bào nhưng kích thích khả năng thực bào và kích thích chức năng miễn dịch, qua đó tác động trên tế bào ung thư [Chang Minyũ 1992; sách đã dẫn]. Gần đây, isofraxidin đã được phân lập và xác định bằng phương pháp điện di mao quản [Wenfie Zheng và cs. 2003, Talanta, Vol 60, No5; 955 - 960],

      Tinh dầu hoa sói rừng có tác dụng ức chế 30 - 40% các tế bào ung thư u báng Ehrlich, ung thư Walker và sarcoma - 37. Tinh dầu cũng thể hiện độc tính tế bào rất mạnh, làm giảm kích thước của khối u khi tiêm trực tiếp vào khối u và kéo dài thời gian sống của động vật thí nghiệm [Chang Minyi, 1992, sách đã dẫn].

2. Tác dụng thực bào

       Nước sắc toàn cây hoa sói rừng có tác dụng thực bào, một khía cạnh của tác dụng chống ung thư. Tuy nhiên, dầu bay hơi cất từ toàn cây lại có tác dụng ức chế thực bào giống như cyclophosphamid. Do đó, toàn cây hoa sói rừng cần phải đun sôi thật kỹ để loại bỏ dầu bay hơi trước khi dùng [Chang Minyi, 1992, sách đã dẫn].

3. Tác dụng trên hệ miễn dịch

      Thử các biện pháp miễn dịch ở động vật cho thấy lá và cành cây hoa sói rừng có tác dụng trên hệ miễn dịch tương tự như rễ nhân sâm, tức là liều nhỏ làm tăng chức năng của hệ miễn dịch, còn liều lớn lại làm giảm chức năng này [Chang Minyi, 1992, sách đã dẫn].

4. Tác dụng kháng khuẩn

       Cao toàn cây hoa sói rừng có tác dụng kháng khuẩn tốt trên một số loài Staphylococcus, Shigela, Salmonella, Escherichia coli và Streptococcus pyogenes [Kee Chang Huang,1999, The pharmacology of Chinese herbs, 2nd Ed., CRC Press, Boca Raton - London - New York - Washington DC, tr. 475].

5. Thứ lâm sàng tác dụng chống ung thư

      Cao toàn cây hoa sói rừng dùng làu dài làm giàm kích thước u và cải thiện được trạng thái lâm sàng của bệnh nhân, như làm cho ăn ngon miệng hơn, làm tăng cân nặng của bệnh nhân, ở một số trường hợp ung thư giai đoạn muộn, có triệu chứng vàng da, dùng hàng ngày cao toàn cây sẽ làm giảm vàng da và làm giảm nồng độ bilirubin trong máu [Kce Chang Huang. 1999,sách đã dẫn].

      Toàn cây hoa sói rừng có cả tác dụng chống ung thư, lẫn tác dụng kháng khuẩn, nên dùng để chữa ung thư có biến chứng nhiềm khuẩn rất tốt. Ở 17 bệnh viện của Thượng Hải, người ta đã điều trị cho 373 bệnh nhân ung thư bằng hoa sói rừng, thấy tỷ lệ có hiệu quả là 53,9%. Trong số bệnh nhân trên có 113 bệnh nhân chi điều trị bằng hoa sói rừng, tỷ lệ có kết quả lả 62.8%, trong đó kết quả rất tốt là 22,1%. Một bệnh viện ở tinh Triết Giang đã điều trị cho 70 bệnh nhân ung thư bàng hoa sói rừng dùng đơn độc trong một tháng. Kết quả có 6 bệnh nhân cho kết quả rất tốt, 49 trường hợp bệnh có cải thiện được, như vậy, tỷ lệ có hiệu quả là 78,57%.

      Trong số các loại ung thư, đã thấy có hiệu quả tốt hơn đối với các loại ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư tuyến tụy, ung thư thực quản, bệnh bạch cầu và sarcom lưới dòng lympho. Sau khi dùng chế phẩm từ cây hoa sói rừng, triệu chứng bệnh giảm đi, ăn ngon và thời gian sống kéo dài. Ở một số bệnh nhân, kích thước khối u giảm. Chế phẩm không gây các phản ứng tại chỗ hoặc toàn thân, và an toàn khi sử dụng. Ngoài ra, thuốc còn có tác dụng an thần và chống mỏi mệt khá rõ [Chang Minyi, 1992, Anticancer medicinal herbs, Hunan Science and Technology publishing house, China, tr. 4],

Tính vị, công năng

      Hoa sói rừng có vị đắng, cay, tính hơi ấm, ít độc. Rễ có nhiều dầu thơm, có tác dụng hoạt huyết, giảm đau, khu phong, trừ thấp, giảm phù nề, tiêu viêm, giải độc.

Công dụng

       Hoa sói rừng được dùng chữa ho, suy nhược, đau nhức nửa đầu, viêm khớp, đau nhức xương, đụng giập, nắn bó gẫy xương. Ngày dùng 15 - 30g toàn cây sắc uống. Để chữa đau nhức xương, dùng rễ tốt hơn. Dùng ngoài, toàn cây tươi giã nát. đắp vào chỗ đau nhức, đụng giập hoặc rễ để bó gẫy xương. Có thể dùng toàn cây phơi khô, tán bột, khi dùng chiêu với nước hoặc rượu.

     Ở Đông Nam Á, thân và cành hoa sói rừng phơi khô, tán bột và lá tươi nghiền nát để bó gẫy xương, hoặc đắp lên chỗ thâm tím do đụng giập. Nước sắc lá uống có tác dụng làm săn se và chữa nôn (Perry và Metzger, 1980, Medicinal plants of East and Southeast Asia. The MIT Press, Cambridge - Masschusets - London, trang 78).

     Ở Hồng Công (Trung Quốc) toàn cây hoa sói rừng được dùng chữa lỵ trực khuẩn, viêm ruột thừa, mụn nhọt, thấp khớp dạng thấp, đau lưng, viêm não. Ngày 20 - 30g sắc uống, tán bột uống với rượu hoặc dùng bột làm thành viên uống. Còn dùng rễ ngâm rượu uống chữa đau tức ngực, lá sắc uống trị ho lao. Lá tươi giã nát đắp chữa rắn cắn, bầm tím, hoặc bó gãy xương. Ngoài việc dùng để trị các bệnh mụn nhọt, kiết lỵ, hoa sói rừng còn chữa viêm amidan, nhiễm khuẩn hô hấp, tiết niệu (Trung dược từ hải, 1993, tập I. tr. 137)

      Về chữa ung thư, tài liệu trước đây ở Trung Quốc chỉ nêu hoa sói rừng làm giảm u bướu, giảm ứ đọng máu, cải thiện được chức năng tuyến tụy chữa đau dạ dày. Nhiều tài liệu gần đây ghi rõ hoa sói rừng được dùng để điều trị u rắn ác tính như carcinom tuyến tụy, ung thư dạ dày, thực quản trực tràng, kết tràng, ung thư bàng quang, ung thư gan, phổi, giáp trạng [Chang Minyũ 1992, Kee Chang Huang, 1999, sách đã dẫn].

       Hoa sói rừng được chế tạo dưới dạng viên cỏ 0.5g cao toàn cây tương đương với 2,5g dược liệu khô, mỗi lần uống 3 viên, ngày 3 lần. Cũng đã chế thành dung dịch tiêm, mỗi ống 1 ml tương đương lg dược liệu khô, liều hàng ngày 2-4 ống, tiêm bắp hoặc tĩnh mạch (Kee Chang Huang. 1999, sách đã dẫn).

      Để điều trị ung thư đường tiêu hoá, dùng lá và cành hoa sói rừng, chiết thành cao khô, rồi làm thành viên, mỗi viên 0,3 g cao khô, mỗi lần dùng 4-6 viên, ngày 3 lần. Để điều trị ung thư tuyến tụy, toàn cây hoa sói rừng chiết lấy flavon, làm thành thuốc viên hoặc thuốc tiêm. Mỗi viên 200 mg và mỗi ống tiêm 25 mg. Thuốc viên, mỗi lần dùng 100 - 400 mg flavon, tuỳ theo điều kiện bệnh nhân, ngày 3 lần. Thuốc tiêm thường dùng mỗi lần 1 ống. ngày 2 lần [Chang Minyi, 1992, sách đã dẫn].

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC