Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần C

Cảo Bản

09:05 30/05/2017

Ligusticum jeholense Nak. et Kitaga

Tên đồng nghĩa: Cnidium jeholense Nak et Kitaga

Tên khác: Hương cảo bản, liêu cảo bản.

Họ: Hoa tán (Apiaceae).

Mô tả

Cây thảo, sống lâu năm, cao 1 - l,5m. Thân rễ ngắn. Thân mọc thẳng, phía gốc màu tím tía. Lá mọc so le, kép hai lần lông chim, mép có răng cưa nhọn, hai mặt nhẵn; cuống lá dải, phần gốc phát triển thành bẹ to ôm thân. 

Cụm hoa mọc ở ngọn thân và kẽ lá thành tán kép gồm 6 - 19 tán đơn dài ngắn không đều, mỗi tán đơn có 15-20 hoa nhỏ màu trắng.

Quả gồm hai phân quả dính nhau, hình thoi, mỗi phân quả dài khoảng 5mm, có sống dọc, đầu bằng có vòi nhụy tồn tại.

Phân bố, sinh thái

Cảo bản là tên vị thuốc có nguồn gốc từ 2 loài Ligusticum sinensis Oliv. và L.jeholense L. thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Cả 2 loài này vốn mọc tự nhiên, sau được trồng ở Trung Quốc.

 Theo Võ Văn Chi, 1997 ở Hà Giang nước ta có nhập trồng loài cảo bản (Lignsticum sinensis Oliv.) từ 100 năm nay. Qua điều tra của Viện Dược liệu thì chưa thấy cảo bản đưọc trồng ở tỉnh Hà Giang. Tuy nhiên trong quá trình điều tra tại huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai, từ năm 1992 chúng tôi đã phát hiện thấy một vài lang y ở địa phương có lấy gốc và rễ của một loài cây thuộc họ Apiaceae để sử dụng làm thuốc với tên gọi là "Cảo bản". Loài cây này vốn mọc tự nhiên trên đất ẩm ở nương rẫy hay ven đường đi. Mẫu vật thu thập được (Lưu trữ tại Bảo tàng Dược liệu - viện Dược liệu), bước đầu xác định thuộc chi Ligusticum, họ Apiaceae nhưng chưa khẳng định được đến loài (!). Cây mọc tự nhiên cũng đã thu thập về trồng tại Vườn thuốc trại Sa Pa (Viện Dược liệu).

Quan sát loài cây được gọi là "Cảo bản" ở Sa Pa cho thấy, chúng thuộc cây 1 (hoặc 2) năm; ưa ẩm và ưa sáng. Cây mọc từ hạt vào tháng 3-5; sinh trưởng nhanh trong mùa xuân - hè; đến tháng 9-10 thì ra hoa quả. Quả già tháng 11 - 12, sau đó cây bị tàn lụi.

Vấn đề cần thiết hiện nay là cần nhanh chóng xác định tên khoa học cũng như về giá trị sử dụng làm thuốc của cây thuốc này. Ở Việt Nam, hiện còn phải nhập dưọc liệu cảo bản của Trung Quốc. Cây được trồng ở các tỉnh như Hà Bắc, Nội Mông, Cát Lâm, Sơn Tây.

Cách trồng

Cảo bản là cây ưa khí hậu mát quanh năm, nhiệt độ trung bình trong năm từ 15 - 20°c, lượng mưa 2000 - 2500 mm/năm. Đất trồng cần màu mỡ, thoát nước, độ pH = 6 - 6,5.

Cây được nhân giống bằng các đốt thân có mầm ngủ. Khi cây già, hoa tàn, lá lụi, lấy các thân khoẻ, không sâu bệnh, mầm ngủ to, mập, để làm giống. Giống là các đoạn gần gốc gồm 4-5 đốt, sau đó bảo quản bằng một trong hai cách:

- Bó lại thành từng bó nhỏ gồm 20 - 30 thân, dựng ở chỗ râm, thoáng mát, trên phủ cỏ, có mái che, thỉnh thoảng tưới nước giữ ẩm.

- Cắt ra từng đốt mầm, rải trên nền đất cao ráo, cứ một lớp mầm lại phù một lớp đất mùn hay phân chuồng hoai mục dày 2-3 cm, sau rải mầm tiếp 2-3 lớp, trên cũng có giàn che, thỉnh thoảng tưới giữ ẩm. Đến tháng 1 - 2 mầm bắt đầu nhú cùng với các rễ con, lúc đó cũng là thời vụ trồng cảo bản.

Đất được cầy bừa, để ải, đập nhỏ, vơ sạch cỏ, lên thành luống cao 20 - 25 cm, rộng 60 - 80 cm, trồng 2 hoặc 3 hàng.

Phân bón lót chủ yếu là phân chuồng mục hoặc mùn núi, khối lượng khoảng 20 tấn/ha. Ngoài ra có thể dùng thêm phân đạm, supe lân kali, khô dầu các loại, bã mắm,... ngâm thật hoai mục dùng để bón thúc.

Trồng cây theo hốc, mỗi hốc đặt 1 mầm giống, sau phù đất dày 2-3 cm, tưới đủ ẩm. Khi cây còn nhỏ cần làm cỏ, xới đất. Khi cây lên cao cần vét luống, vun gốc để chống đỡ cây, kết hợp với bón thúc. Khi trời mưa cần thoát nước kịp thời để tránh bệnh thối củ. Khi phát hiện có sâu, bệnh cần phun thuốc kịp thời.

Cảo bản thu hoạch vào tháng 11- 12 khi cây bắt đầu lụi. Đào lấy củ, bỏ rễ, rũ sạch hoặc rửa sạch đất rồi phơi hoặc sấy khô.

Bộ phận dùng

Thân, rễ.

Thành phần hoá học

Rễ và thân chứa tinh dầu [Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Y học, 1999: 96], levistolid A, xiongterpen, acỉd linoleic, sucrose, daucosterol, acid ferulic và ß sitosterol [Zhang B - Sunf M - Chang RL - Zang H, Zong Yao .Cai, 2009, May, 32(5) 710 - 2 (Artie! in China)].

Tác dụng dược lý

1. Độc tính cấp của tinh dầu cảo bản

Đã xác định độc tính cấp dùng uống cho chuột nhắt trắng, thấy tinh dầu cảo bản được chưng cất từ cây cảo bản tươi có liều chết trung bình là LD50= 70,17 ± 4,95 g/kg [Trung tây y kết hợp tạp chí, 1987, vol.7, 12: 738;TDTH, 1997,111: 1628], 

2. Tác dụng trên hoạt động vận động tự nhiên

Cho chuột nhắt trắng uống tinh dầu cảo bản, liều trong khoảng 1/10 đến 1/5 liều LD50, thấy hoạt động vận động tự nhiên giảm. Có thể đó là do tinh dầu cảo bản có tác dụng ức chế hộ thần kinh [Tài liệu đã dẫn].

3. Tác dụng hạ huyết áp và giãn mạch

Nước sắc cảo bản hoặc cao chiết bằng ethanol của rễ và thân rễ cảo bản với liều tính theo dược liệu khô là 2 g/kg tiêm tĩnh mạch cho thỏ đã gây mê, thấy huyết áp hạ xuống. Vớt liều 2 g/kg tiêm tĩnh mạch không thấy có ảnh hưởng rõ trên mạch tai thỏ. Nhưng thí nghiệm trên tai thỏ cô lập, lại thấy hệ mạch tai thỏ giãn ra [Trung thảo dược, 1981, 12 (3): 17; TDTH, 1997, III: 1628],

4. Tác dụng trên cơ trơn

Trên cơ trơn ruột thỏ cô lập, thêm vào môi trường nuôi tinh dầu cảo bản với nồng độ 1,4 - 5,6 mg/ml, sự co bóp ruột bị ức chế. Tinh dầu cảo bản cũng có tác dụng ức chế sự tăng co bóp ruột gây ra do histamin hoặc acetylcliolin. Dung dịch cao chiết nước của rễ và thân rễ cảo bản với nồng độ trong dịch nuôi là 1,3% cũng ức chế sự co bóp ruột cô lập; đồng thời cũng đối kháng với tác dụng tăng co bóp ruột do acetylcholin [Trung dược thông báo, 1987, 12(4): 240; TDTH, 1997, III: 1628].

Trên từ cung thỏ cô lập, những nồng độ tinh dầu cảo bản từ 1,4 - 5,6 mg/ml cũng có tác dụng ức chế sự co bóp tự nhiên; đồng thời cũng đối kháng với tác dụng tăng co bóp tử cung do oxytocin [Tài liệu đã dẫn].

5. Tác dụng chống viêm, giảm đau

Tinh dầu được cất từ toàn cây cảo bản tươi, cho chuột nhắt trắng uống với liều 7 - 14 g/kg có tác dụng giảm đau, làm giảm số lần đau quặn bụng chuột khi tiêm vào phúc mạc dung dịch acid acetic [Trung thảo dược, 1989, 20(6): 262; TDTH, 1997, III: 1628],

Tinh dầu cảo bản với liều 7-14 g/kg có tác dụng chống viêm, khi gây viêm làm sưng phồng tai chuột bằng cách bôi dimethylbenzen vào tai chuột, hoặc khi gây viêm làm sưng phồng chân chuột bằng cách tiêm vào dưới da gan bàn chân chuột 0,05 ml dung dịcli carragenin 1%.

6. Tác dụng kháng khuẩn

Nước sắc của thân rễ và rễ cảo bản khi thêm vào môi trường nuôi cấy, có tác dụng ức chế một số chùng vi khuẩn kiểm định [Trung hoa bì phu khoa tạp chí, 1958, 6(3): 210; TDTH, 1997, III: 1628].

7. Tác dụng hạ sốt

Cảo bản có tác dụng hạ sốt, làm ra mồ hôi, nên thường được dùng để điều trị cảm sốt, nhức đầu [Kee, 1999: 196]:

Tính vị, công năng

Rễ và thân rễ cảo bản vị cay, tính ấm, không độc, có công năng tán phong hàn, khu phong, táo thấp, chi thống. Tài liệu Trung Quốc cũng ghi: cảo bản vị cay hơi ngọt, tính ôn có công năng tán phong, khư hàn, chi thống, thắng thũng [TDTH, 1997, III: 1629], Có tài liệu ghi: cảo bản quy (đi vào) kinh bàng quang [Nguyễn Văn Quý, 2002: 132],

Công dụng

Thân rễ và rễ cảo bản được dùng chữa cảm mạo, thấp khớp, đau nhức đầu, đau nửa đầu, chứng âm hộ lạnh sinh đau nhức, kinh nguyệt không đều. Ngày dùng 3 - 6g sắc nước uống.

Thân rễ hoặc cây cảo bản tươi nấu nước, gội đầu cho sạch gầu, hoặc sắc lấy nước để tắm và giặt quần áo khi trẻ em bị ghẻ lở, chốc đầu, mụn nhọt.

Sách "Đạo tính bản thảo" ghi: cảo bản trừ được các loại gió độc, cảm lạnh, lợi tiểu tiện, thông huyết, khỏi nhức đầu. Sách "Dụng dược pháp tương" ghi: cảo bản trừ phong thấp nhiễm vào các cơ quan cơ thể, các chứng cảm mạo. Sách "Chân châu nang" ghi: cảo bản chữa khỏi nhức đầu, đau màng óc, khí lạnh nhiễm cảm [Nguyễn Văn Quý, 2002: 123],

Theo "Dược tài đông y", cảo bàn được dùng chữa nhức đầu do cảm lạnh (phong hàn đầu thống); thoát vị, sưng phù do hàn (hàn thấp sán hà); đau bụng, ỉa chày. Ngày dùng 2 - 8g. Dùng ngoài chữa ghẻ, chốc lở: lấy lượng vừa đủ, nấu sôi, lấy nước rửa chỗ bị bệnh[Lê Quý Ngưu, 1999: 6-7],

Bài thuốc có cảo bản

1. Chữa nhức đầu

Cảo bản 6g, xuyên khung 3g, phòng phong 5g, bạch chỉ 3g, tế tân 3g, cam thảo 3g, nước 600 ml. Sắc còn 200 ml chia 3 lần uống sau khi ăn lúc thuốc còn nóng.

2. Chữa hàn tà, uất ở kinh túc thúi dương, sinh đau đầu, nhức óc

Cảo bản, khương hoạt, tế tân, xuyên khung, mỗi vị 3g, thêm thông bạch (hành cù) 2 củ sắc uống.

3. Chữa đầu có nhiều gầu

Cảo bản, bạch chỉ, hai vị lượng bằng nhau, tán thành bột mịn. Tối hôm trước sát hỗn hợp bột vào đầu, sáng hôm sau gội đầu. Có thể sắc, lấy nước gội đầu.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC