Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần D

Đằng Hoàng

16:05 04/05/2017

Còn gọi là vàng nhựa, vàng nghệ, gommegutte, đom rông, cam rông, roeng (Cãmpuchia).

Tên khoa học Garcinia hanburyi Hook. f [Cambogia gutía Lour, (non L.)]

Thuộc họ Măng cụt Clusiaceae (Guttiferae).

Đừng nhầm vị đằng hoàng (Gomme gutte) với vị hoàng đằng (xem vị này). Đằng hoàng là vị thuốc được dùng cả trong đông y và tây y. Các tài liệu cổ của Trung Quốc đã ghi từ thế kỷ thứ X và trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (Trung Quốc) có ghi vị này (Thế kỷ XVI). Đằng hoàng được dùng ờ châu Âu vào năm 1603 (lúc đầu người ta cho đây là dịch mủ cùa một cây loại xương rồng, mãi tới 1864 Hanburyi mới nghiồn cứu xác minh cẩn thận).

A. Mô tả cây

Cây to cao lơ-20cm, thân nhẵn, thẳng đứng, cành ngả xuống đất. Lá mọc đối, cuống ngắn, hình bầu dục hay hình mác, hai đẩu hơi tù, phiến lá dai, nguyên nhẵn, dài 10-20cm, rộng 3-10cm. Hoa khác gốc, hoa đực mọc ờ nách lá, đơn độc hay tụ thành 3-6, có cuống, có lá kèm nhỏ, hoa cái mọc ở nách lá, đơn độc, to hơn hoa đực. Quả mọng hơi hình cầu, đường kính 2-5cm, phía cuống có đài tổn tại, 4 ngăn, mỗi ngàn có một hạt hơi cong hình cung. Mùa hoa: tháng 12-1, mùa quả: tháng 2-3

đằng hoàng và tác dụng chữa bệnh của nó

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Theo những tài liệu cõ thì cây chỉ mới thấy mọc ờ miền Nam nước ta, ở Campuchia và Thái Lan. Cần chú ý phát hiện ỏ miền Bắc. Còn được trổng ở Giava (Inđonêxya) và Xịngapo. Tất cả các bộ phận của cây đều có những ống bài tiết nằm trong mô vỏ, trong libe, tuỷ và cả trong mô gỗ. Thường sau mùa mưa (ở miển Nam, vào các tháng 1-5) người ta dùng rìu khía thành vòng xoắn ốc trên thân những khía sâu vài milimet từ dưới đất lên đến cành thú nhất. Một chất dịch mủ màu vàng chảy ra được hứng vào các ống tre, sau một thời gian nhựa mù đặc lại. Hơ nóng đều ống tre cho nước bốc hết đi. Chẻ lấy vị đằng hoàng.

Mỗi cây mỗi năm có thể cho ba thỏi đằng hoàng dài 0,50m, đường kính 4cm. Loại đằng hoàng thỏi này được chuộng nhất trên thị trường tiêu thụ. Nhưng có khi vị đằng hoàng còn đang mềm, người ta lăn thành bánh hay thành miếng to nhỏ không đều. Có nơi người ta uốn cong cả cành đằng hoàng, cắt đẩu cho nhựa mủ chảy ra, húng vào ống tre hay vại rồi chế thành đằng hoàng thỏi hay miếng như trên. Vị đằng hoàng thỏi thường là những thỏi dài 15- 20cm, đường kính 3-6cm, trên mặt thường có những khía dọc dấu vết của ống tre, trên mặt có bụi màu vàng nhạt, đằng hoàng dễ vỡ, vết vỡ bóng hay mờ, màu vàng hay sẫm hay vàng cam nâu nhạt. Khi miết ngón tay ướt lên vị đằng hoàng ta sẽ thấy tay có màu vàng tươi, soi trên kính hiển vi sẽ thấy những giọt hình cầu ngả màu nâu khi thêm iôt. Đằng hoàng tan trong cổn (cho màu đỏ), trong ête (cho màu vàng). Đun nóng mềm ra nhung không chảy lỏng và cháy không cho mùi gì đặc biệt. VỊ hắc, mùi không nõ. Đằng hoàng cục thường nặng l-l,5kg, cũng có những tính chất như đằng hoàng thỏi nhưng thường không tinh khiết bằng, thường bị pha trộn (với tinh bột 6-20%). Ngoài vị đằng hoàng trích ở cây đằng hoàng Garcinia hanburyi, người ta còn khai thác cả ờ những cây Garcinia morella var sessiỉis (gôm gut ở Xrilanca) thường thành từng cục nhỏ, hoặc đằng hoàng lấy ở cây Garcinia pìctoria Roxb., Garcinia travancorina khai thác ở phía nam Ân Độ.

Những loại đằng hoàng này ít có giá trị hơn, nhưng gợi ý cho ta có thể dùng một số loài Garcinìa hiện có sẵn ở miền Bắc cũng có nhựa mủ màu vàng. Khi mua đằng hoàng thường người ta đòi hỏi vị đằng hoàng phải có ít nhất 70% nhựa tan trong cồn 90°, không quá 1 % tro. Một phần bột đằng hoàng ưộn với năm phần nước phải cho một nhũ dịch bền vững khi thêm amoniac phải trở thành trong và ngả màu vàng đỏ vàng cam sẫm, dung dịch này khi thêm axit clohydric có thừa phải không màu và tủa màu vàng.

C. Thành phần hoá học

Trong đằng hoàng có 70-80% chất nhựa, 18 đến 24% chất gôm, ngoài ra còn có tinh dầu, một ête phenolic. Chất nhựa dưói dạng bột có màu vàng, khi thêm kiềm ngả màu đỏ, không tan trong nước, tan trong cồn, ête, dung dịch kiềm nhẹ. Từ nhựa người ta chiết được ba loại axit gacxinolic OC, (3 và Ỵ. Axit gambodgic (do chữ gambodge tiếng Anh có nghĩa là đằng hoàng). Gần đây Auterboff còn chiết được p guttilacton là một xanthon phức tạp. Chất gôm gần giống gôm arabic, rất tan trong nước, chứa một men oxydaza, quay cực trái.

D. Tác dụng dược lý

Thuốc tẩy rất mạnh: Với liều 0,1 đến 0,2g đã cho phân lỏng, với liều 0,25 đến 0,40g phân rất nhiều, đau bụng và có khi nôn, với liều cao nữa thì độc (nôn, viêm dạ dày và ruột) có khi đến chết sau khi đau bụng nặng phân có máu... Đằng hoàng chỉ có tác dụng ờ khu vực ruột khi tiếp xúc vói chất béo và với mật nhưng không có tác dụng thông mật.

E. Công dụng và liều dùng

Đằng hoàng hiện nay ít dùng. Trước đây dùng làm thuốc tẩy nhẹ với liều 0,10-0,15g. Với liều 4g có thể chết. Tại Cămpuchia người ta dùng chữa cảm và viêm phế quản. Ngoài ra còn có tác dụng tẩy giun và tẩy sán. Trong công nghiệp dùng trong sơn, vẽ màu và chế vecni phủ lên kim loại.

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC