Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599
Hotline: 0915.913.255; Zalo: 0903 428.599

Vị thuốc vần B

Ba Đậu

16:05 04/05/2017

Còn gọi là mắc vát, cóng khói, bã đậu, giang tử, mãnh tử nhân, lão dương tử, ba nhân, mần để, cây để, cây đết, phổn (Hoà bình)

Tên khoa học Croton tiglium L.

Thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae. Cây ba đậu cho ta các vị thuốc sau đây:

1. Hạt ba đậu (Semen Tỉglii) là hạt ba đậu phơi khô.

2. Dầu ba đậu (Oleum Tíglii) là dầu ép từ hạt ba đậu.

3. Ba đậu sương là hạt ba đâu sau khi đã ép hết dầu đi rồi

A. Mô tả cây

Ba đậu là một cây nhỡ cao 3-6m, cành nhẵn. Lá mọc so le, nguyên, hình trứng, đầu nhọn, mép có răng cưa nhỏ, dài 6-8cm, rộng 4-5cm, cuống nhỏ, dài l-2cm. Trông toàn thân cây thường thấy một số lá màu đỏ nâu làm cho cây dễ nhận. Hoa mọc thành chùm dài 10-20cm, ờ đầu cành, hoa cái ờ phía dưới, hoa đực ờ đỉnh, cuống nhỏ dài 1 - 3mm. Quả nang, nhẵn, màu vàng nhạt, cao 2cm, có 3 mảnh vỏ khi chín tách ra. Hạt hình trứng dài 10mm, rộng 4-6mm, ngoài có vỏ cứng, mờ, màu nâu xám (khác hạt thẩu dầu bóng và có vân)

Cây ba đậu và tác dụng chữa bệnh của nó

 B. Phân bố, thu hái và chế biến

Ba đậu mọc hoang và được trồng ờ nhiều tỉnh miền Bắc nước ta, nhiều nhất tại các tỉnh miền núi: Hà Giang, Tuyên Quang, Hoà Bình, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Trung Bộ cũng có. Còn mọc ở Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Hồ Bắc). Vào tháng 8-9, quả chín nhưng chưa nứt các mảnh vỏ, dù hái về phơi khô đập lấy hạt, phơi khô lần nữa là được. Cũng có khi để bảo quản dễ dàng hơn, người ta để nguyên cả quả, khi dùng mới đập lấy hạt.

c. Thành phần hoá học

Trong hạt ba đậu có 30-50% dầu, 18% chất pro- tein, một glucozit gọi là crotonozit (2-oxy 6- aminopurin-ribozit), một anbumoza rất độc gọi là crotin, một ancaloit gần như chất rixinin trong hạt thầu dầu, men lipaza và một số axit amin như acginin, lyxin, v.v... Dầu ba đậu lỏng sền sệt, hơi có huỳnh quang, vị cay nóng (rất độc) tỷ trọng ở 25°c là 0,935-0,950, chỉ số xà phòng 102-118, tan trong cùng một thể tích cồn cao độ, nhưng nếu thêm nhiều cồn quá thì hỗn hợp sẽ phân thành 2 lớp, thành phần gây đi ỉa sẽ tan trong tẩng cồn.Dầu này tan trong ête, sunfua cacbon, axit axetic.

Trong dầu ba đậu ngoài các glyxerit thường gặp như stearin, panmitin, còn có glyxerit của các axit crotonic và tiglic là những axit đặc biệt trong hạt ba đậu. Thành phần tẩy trong dầu ba đậu là chất nhựa croton resin tức là este của một cồn gọi là phocbola (phorbol) với những axit tiglic, và một số axit khác. Tỷ lệ hoạt chất tẩy này trong dầu chừng 2-3% (theo Flaschemtrager et Wigner, 1942, Hel. Chim. Acta 25: 569) Chất mang tên crotin chính gồm 2 chất croton- anbumin và croton-globulin là chất độc đối với nguyên sinh chất (protoplasma), đôi khi có tác đụng làm vón máu. Độ độc của nó bị sức nóng làm giảm bớt. Tính chất của nó cũng giống như chất rixin trong hạt thầu dầu.

D. Tác dụng dược lý

Dầu ba đậu là một chất gây phồng rất mạnh: tác dụng trên da, người ta thấy da nóng bỏng và phổng lên, mọng nước, sau đó thành mụn tróc da. Tác dụng chậm (thường 24 giờ trước khi có mủ) và bao giờ cũng chỉ tác dụng trên bề mặt thôi: sau khi khỏi mụn, không có sẹo, trừ phi tại cùng một chỗ làm lại nhiều lần. Nếu da đã có sẹo cũ thì dầu không có tác dụng. Uống trong, dầu ba đậu là một loại thuổc tẩy rất mạnh, với liều rất nhỏ (1/2 đến 2 giọt) đã gây tác dụng sau 1/2 đến 1 giờ. Đi ngoài 5 đến 10 lần, lúc đầu đặc, sau lỏng, bụng đau nhiều hay ít, nóng ờ hậu môn. Với liều cao hơn 2 giọt, gây viêm ruột và có triệu chứng ngộ độc: Nôn mửa, đi ngoài nhiều, toát mồ hôi và chết, 10 đến 20 giọt đủ giết một con ngựa. Dùng liều nhỏ, liên tiếp cũng gây ngộ độc và chết

E. Công dụng và liều dùng

Thuốc dùng cả trong đông y và tây y nhưng cách dùng có khác nhau. Theo tài liệu cổ, ba đâu vị cay, tính nóng, rất độc, vào 2 kinh vị và đại tràng. Có tác dụng tả hàn tích, trục đờm, hành thủy. Tây y chỉ dùng dầu ba đậu làm thuốc lùa bệnh, trong những trường hợp tê thấp, viêm phổi, đau ruột, viêm phế quản. Nếu dùng trên da bụng cần bảo vệ rốn bằng một miếng thuốc dán. Còn làm thuốc tẩy mạnh, dùng trong những trường hợp táo khó chữa, sau khi dùng những loại thuốc khác không có tác dụng.

Nhưng thuốc rất độc xếp vào loại độc bảng A. Dùng ngoài với liều 6-7 giọt trộn với dầu khác như dầu lạc, dầu thầu dầu rồi dùng bút lông mà bôi để tránh phồng tay, thường bôi một diện tích nhỏ hơn diện tích định gây phồng. Uống trong với liều 1 giọt trộn vói dầu hay ruột bánh mỳ. Liều tối đa một lần 0,05g, trong 24 giờ 0,10g. Gần đây ít dùng trong tây y vì nhiều nguy hiểm. Trái lại, trong nhân dân, người ta ít sợ ba đậu hơn. Cũng công nhận có độc, nhưng do cách dùng khác cho nên đỡ nguy hiểm hơn. Thường dùng dưới hình thức ba đậu sương, nghĩa là hạt ba đậu ép bỏ hết dầu đi mới dùng với liều 0,01-0,05g lại thường phối hợp với nhiều vị thuốc khác. Hoặc có khi dùng như sau (kinh nghiệm của nhân dân Campuchia): Cắt ngang đầu một quà chanh, lấy hết hột chanh ra, thay bằng ít hạt ba đậu, cho vào đun với 300ml nước cho đến khi hết nước và quả chanh khô thì giã nhỏ cả quả chanh và hạt

DANH MỤC CÁC VỊ THUỐC